Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Của Tttt


này khắc phục về cơ bản những hạn chế của hệ thống thanh toán liên ngân hàng trước đó. Nó đáp ứng được yêu cầu tập trung vốn trong thanh toán, tạo điều kiện để NHNN kiểm soát các khoản vốn dự trữ, giảm lượng vốn trôi nổi, tăng tốc độ vòng quay của các nguồn vốn. Hệ thống này tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, góp phần giảm thiểu tình trạng lãng phí vốn do phải dự trữ nhiều hơn mức cần thiết của các NHTM trước kia, giúp các ngân hàng sử dụng vốn hiệu quả hơn, đồng thời cũng hạn chế được việc phải vay thanh toán bù trừ tại NHNN với lãi suất cao. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng chưa được triển khai ở phạm vi rộng. Vì thế, trong thời gian tới cần được mở rộng đối tượng áp dụng trên phạm vi cả nước.

- Nâng cấp hệ thống thanh toán hiện hành để tăng tính hiệu quả và tin cậy của hệ thống này. Hệ thống thanh toán trong nước thời gian qua đã có những bước phát triển vượt bậc, thời gian thanh toán được rút ngắn đáng kể. Tuy nhiên, một số TCTD do quy mô giao dịch còn nhỏ, nên còn chưa chú ý đầu tư, nâng cấp hệ thống thanh toán. Điều này dẫn tới khó khăn cho chính bản thân ngân hàng trong việc theo dõi trạng thái vốn của mình tại NHNN nên họ duy trì dự trữ vượt quá mức để đáp ứng các khoản thanh toán bất thường, từ đó làm giảm gieo dịch giữa các TCTD. Đây là những vấn đề quan trọng cho các quyết định CSTT chủ động, chính xác của NHNN. Một hệ thống thanh toán phát triển sẽ giúp NHNN nắm được tình hình thanh toán của các TCTD, đồng thời việc nắm được thông tin thường xuyên và kịp thời về tình hình thu-chi của Chính phủ (qua Kho bạc Nhà nước) có thể giúp cho công tác dự báo thanh khoản được thực hiện tốt hơn.

- Xây dựng các trung tâm tin học mạnh để đủ sức lưu trữ, cập nhật và xử lý thông tin, đáp ứng mọi nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng và sự vận hành của thị trường tiền tệ.

- Thành lập hệ thống ngân hàng thông tin để cung cấp dữ liệu cần thiết, liên quan đến thị trường tài chính – tiền tệ cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.

- Các thành viên thị trường tiền tệ nên tham gia giao dịch qua mạng Reuters để tham khảo lãi suất bình quân trên thị trường, khai thác thêm nhiều thông tin về tài chính, tiền tệ có liên quan ở trong nước và quốc tế như thông tin về các đối tác giao dịch, khối lượng, thời hạn, lãi suất, tỷ giá, ...Thể thức giao dịch này vừa nhanh


chóng, vừa tiết kiệm được thời gian, chi phí hơn các hình thức giao dịch trước đây. Mặt khác, mạng Reuters còn đảm bảo độ tin cậy, an toàn và duy trì bảo mật.

- Phối hợp với BTC sửa đổi quy trình chuyển giao trái phiếu Chính phủ và rút ngắn thời gian chuyển giao quyền sở hữu GTCG từ NHNN sang Trung tâm lưu ký chứng khoán.

3.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của TTTT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cần thiết phải chuẩn bị bộ máy vận hành, điều hành thị trường tiền tệ có đủ năng lực, trình độ, bản lĩnh và kinh nghiệm hoạt động ngang tầm quốc tế ngay từ khi nhập cuộc. Có thể khẳng định rằng, nếu như tất cả những điều kiện khác đã được hội đủ, nhưng chưa chuẩn bị tốt về đội ngũ những người quản lý vận hành thị trường, những chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, các nhà môi giới, nhà đầu tư và các nhà tư vấn, v.v...thì thị trường tiền tệ chưa thể đi vào hoạt động và phát triển được.

Đây là một trong những khó khăn lớn nhất ở nước ta để hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tiền tệ. Theo kinh nghiệm của các nước, đội ngũ nhân lực hoạt động trên thị trường tài chính - tiền tệ phải được đào tạo công phu để họ vừa am hiểu về kinh tế thị trường và luật pháp, vừa phải có nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, đồng thời lại phải có “đạo đức kinh doanh” rất cao.

Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 27

Cần chú trọng chất lượng nguồn nhân lực, số lượng nguồn nhân lực và nguồn cung ứng nguồn nhân lực trong tương lai. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, chuyên gia cao cấp. Người lao động phải có kiến thức tổng quát về đặc thù của riêng lĩnh vực kinh doanh trên thị trường tiền tệ, có trình độ tin học sử dụng các phần mềm ứng dụng trong . Đối với các nhân viên giao dịch phải có các kỹ năng bán hàng, kỹ năng maketing, giao tiếp. Tạo điều kiện phát huy hết tiềm năng, bồi dưỡng hoàn thiện kiến thức, nâng cao kỹ năng trong công tác đối với các nhân viên. Phối hợp với các trường chuyên ngành mở các lớp tập huấn cập nhật thêm kiến thức mới về nghiệp vụ kinh doanh, giao dịch trên thị trường tiền tệ, đồng thời doanh nghiệp cần phối hợp công tác đào tạo với các chính sách chế độ đãi ngộ giữ chân những nhân viên giỏi. Cần tiến hành đào tạo phát triển nguồn nhân lực tại chỗ thông qua các cơ sở, các trường đào tạo chuyên ngành. Lựa chọn các trường đại học, cao đẳng có chuyên ngành phù hợp gần với tài chính – ngân hàng để phối hợp đào tạo kinh doanh trên


thị trường tiền tệ. Các doanh nghiệp phối hợp tuyển dụng, đào tạo, lương, đãi ngộ để duy trì đội ngũ nhân viên giỏi nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tính cạnh tranh khi có các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường. Để đạt mục tiêu mở rộng cung cấp dịch vụ và nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ vốn tiền tệ thì cần bổ sung thêm kiến thức tin học ứng dụng và kinh doanh. Có chế độ tuyển dụng hợp lý trên cơ sở hiệu quả, xây dựng chế độ sát hạch, thưởng phạt để khuyến khích tăng năng suất lao động.

Mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực kinh doanh trên thị trường tiền tệ, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao về nghiệp vụ và quản lý. Xây dựng chương trình nội dung cụ thể và triển khai các lớp học bổ túc thường xuyên, các lớp nâng cao của cán bộ trong bộ máy quản lý Nhà nước cũng như trong các doanh nghiệp. Xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, đào tạo nhân lực kinh doanh tiền tệ đạt tiêu chuẩn cao.

3.2.5. Tăng cường năng lực của hệ thống giám sát tài chính quốc gia

Hệ thống tài chính phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định – đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền là mục tiêu chính của nhiều quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, hệ thống giám sát tài chính đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo môi trường phát triển thuận lợi và lành mạnh cho các định chế tài chính.

Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 mà cho đến nay hậu quả để lại vẫn chưa khắc phục được cũng đã cho thấy những hệ lụy to lớn khi hệ thống giám sát yếu kém, không cảnh báo được những diễn biến và nguy cơ rủi ro, chia sẻ thông tin và phối hợp công tác giữa các cơ quan giám sát quốc gia. Do đó, yêu cầu nâng cao năng lực giám sát và cảnh báo của giám sát tài chính là đòi hỏi hết sức cấp bách đối với các quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng thay đổi này.

Hiện nay mô hình giám sát tài chính Việt Nam vẫn mang tính phân tán dựa trên cơ sở thể chế. Theo đó NHNN thực hiện hoạt động thanh tra giám sát hoạt động các TCTD, Bộ Tài chính thực hiện giám sát hoạt động chứng khoán và Bảo hiểm (chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy Ban chứng khoán Nhà nước và Cục Bảo hiểm).


Trong lĩnh vực ngân hàng, từ ngày 30/7/2009, Ngân Hàng Nhà nước đã chính thức công bố quyết định thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan được thành lập trên cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực thuộc NHNN bao gồm: Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các TCTD hợp tác và trung tâm phòng chống rửa tiền. Thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được coi là một công cuộc cải tổ đáng kể của NHNN nhằm tăng cường khả năng thanh tra, giám sát hệ thống các TCTD. Theo quyết định số 83/2009/QD – TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ: “ Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là cơ quan thường trực của NHNN thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu giúp Thống dốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng chống rửa tiền theo quy định của Pháp luật”.

Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống giám sát tài chính quốc gia cũng đang bộc lộ những bất cập sau:

Thứ nhất, chưa có những quy định rõ ràng về quyền hạn và chức năng xử lý của từng bộ phận

Chưa có một luật thanh tra giám sát chuyên ngành quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và cách thức hoạt động các các cơ quan giám sát. Và đặc biệt để làm rõ cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG).

Các cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra truyền thống bỏ sót nhiều lĩnh vực hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới của các tổ chức tài chính, đặc biệt là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự kết hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau.

Kiểm soát rủi ro các tập đoàn tài chính, cho đến thời điểm này, chưa có một quyết định rõ ràng cho phép một cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra các tập đoàn tài chính trên cơ sở hợp nhất. Thực tế, nhiệm vụ kiểm soát rủi ro chung này, tạm thời được coi là thuộc chức năng của ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Tuy nhiên cơ quan này lại không có chức năng giám sát từng định chế tài chính mà chỉ là tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong giám sát tổng thể thị trường tài chính.

- Hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp


Thứ hai, hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp

Ngoài những bất cập về cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh tra giám sát, hoạt động thanh tra, cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, có hiệu quả rất thấp bởi nhiều nguyên nhân:

Một là, công nghệ thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa rất lạc hậu. Trong khi, hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc rất nhiều về khả năng thu thập thông tin.

Hai là, chưa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ thống tài chính.

Ba là, chưa thiết lập các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô (cho cả hệ thống) và giám sát an toàn vi mô (cho từng Định chế tài chính) một cách có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chuyển sang thanh tra giám sát dựa trên rủi ro trong thời gian tới.

Bốn là, năng lực cán bộ của hệ thống thanh tra còn yếu so với yêu cầu đảm bảo an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính.

Thứ ba, sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam với tiêu chuẩn của quốc tế

Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn về hoạt động an toàn tài chính riêng phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chuẩn nào cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế làm việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính theo Basel không mang lại kết quả như ý muốn. Ví dụ như chỉ số về nợ xấu của hệ thông ngân hàng sẽ thay đổi đáng kể khi chúng ta áp dụng hệ thống kế toán quốc tế (IFRS).

Từ những phân tích ở trên, tác giả luận án cho rằng hoạt động của hệ thống thanh tra giám sát, tài chính Việt Nam thời gian tới cần được tăng cường theo các hướng sau đây:

Thứ nhất, tăng cường năng lực giám sát cho các cơ quan giám sát chuyên ngành trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia: (i) Bổ sung nhân lực có trình độ cao; (ii) Đào tạo cán bộ và khuyến khích và tạo điều kiện cho các cán bộ hoàn thành các chứng chỉ quản trị rủi ro; (iii) Đầu tư mạnh cho công nghệ đáp ứng cho nhu cầu


thu thập, xử lý, phân tích và trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát và tổ chức bị giám sát.

Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát. Cụ thể, phải có luật thanh tra chuyên ngành, quy định rõ về nội dung và phương pháp thanh tra chuyên ngành ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Hoàn thiện và bổ sung những lĩnh vực hoạt động tài chính ngân hàng mới mà hiện nay vẫn chưa được cơ quan thanh tra giám sát quan tâm lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, bảo vệ người sử dụng dịch vụ.

Thứ ba, cần sớm thiết lập một cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin hiệu quả giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Cơ chế phối hợp này sẽ giúp các cơ quan thanh tra giám sát tài chính không bị chồng chéo công việc, đảm bảo giám sát tốt hơn các tổ chức đa ngành.

3.3. Một số kiến nghị để phát triển TTTT ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO.

Qua sự phân tích của Luận án, có thể nêu lên một số kiến nghị để phát triển thị trường tiền tệ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

3.3.1. Đối với Chính phủ

-Về hệ thống luật pháp cho sự phát triển thị trường tiền tệ. Có thể nói, muốn chủ động hội nhập một cách hiệu quả thì Việt Nam phải chuẩn bị đủ những điều kiện cần thiết. Trước hết và có thể coi là việc quan trọng nhất, đó là việc chúng ta cần phải có chương trình xây dựng và điều chỉnh pháp luật sao cho phù hợp các cam kết với các tổ chức khu vực, quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đã ký kết, cũng như phục vụ cho các mục tiêu phát triển đất nước. Đồng thời tuyên truyền sâu rộng đến các doanh nghiệp, các quan chức của bộ máy nhà nước nhất là cán bộ trong các cơ quan trực tiếp tới hội nhập kinh tế và công chúng nắm bắt được luật của nước mình và cả luật lệ quốc tế mà hiện nay có rất nhiều và vô cùng phức tạp.

Các văn bản, thông tư hướng dẫn dưới Luật NHNN và Luật các TCTD đảm bảo tạo sự chủ động cho NHTƯ thực hiện phù hợp, nhất quán với các Bộ luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế. Điều này tạo một hành lang pháp lý thống nhất và cơ bản, giúp NHTƯ điều hành và triển khai thực hiện các CSTT vĩ mô có tính ổn định và dài hạn.

-Về việc Chính phủ phát hành tín phiếu kho bạc ngắn hạn theo đúng nội dung của nó trong thị trường tiền tệ. Hiện nay Chính phủ phát hành trái phiếu, tín phiếu


nhằm mục đích vay nợ trong nước bù đắp bội chi ngân sách chứ chưa nhằm huy động vốn để tài trợ trực tiếp cho từng dự án đầu tư có hiệu quả. Cho phép các tổ chức tài chính trung gian các hội và các quỹ như công ty bảo hiểm, có vốn được phát hành các chứng chỉ ngắn hạn để góp phần tạo “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ.

- Đặt các mục tiêu phát triển và ổn định TTTT trong sự phát triển bền vững của thị trường tài chính Việt Nam vì với các mục tiêu của CSTT có tác động mang tính ngắn hạn với TTTT, điều này dần dần tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường tài chính tại từng thời kỳ và làm cho các mục tiêu mang tính dài hạn có sự điều chỉnh phù hợp. Nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì tác động của nó tới sự phát triển kinh tế là rất lớn.

- Mức độ phát triển TTTT là yếu tố quan trọng, cho phép một NHTƯ chuyển dần việc sử dụng các công cụ mang tính quy định sang các công cụ mang tính thị trường. Quá trình điều hành CSTT của một số nước trên thế giới thời gian qua đã gặp rất nhiều khó khăn do TTTT chưa phát triển. Thất bại trong việc phát triển TTTT đã hạn chế hiệu quả của các nghiệp vụ thị trường của NHTƯ, do đó, trong quá trình phát triển TTTT phải hình thành và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) vì thị trường TPCP phát triển sẽ có những tác động sau:

+ Giúp làm giảm áp lực vay vốn từ phía Chính phủ lên NHTƯ, từ đó, hạn chế áp lực lên lạm phát và những tác động đến tỷ giá hối đoái;

+ Cung cấp "hàng hoá" sử dụng trong NVTTM của NHTƯ;

+ Là nơi hình thành nên mức lãi suất chuẩn (benchmark) cho thị trường trái phiếu và TTTT.

3.3.2. Đối với Bộ tài chính

- Phối hợp với NHNN thiết lập hệ thống chia sẻ thông tin (phần mềm) giữa NHNN và BTC.

- Phối hợp với NHNN xây dựng sàn giao dịch tập trung. Đồng thời phát triển thị trường sơ cấp và thứ cấp Trái phiếu Chính phủ. Đa dạng hoá các loại Trái phiếu Chính phủ để tạo độ sâu của thị trường và cho phép hình thành đường cong lãi suất chuẩn. Áp dụng các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ (sơ cấp và thứ cấp): Sửa đổi quy trình chuyển giao quyền sở hữu, hoạt động của trung tâm lưu ký, nghiên cứu, thành lập hệ thống đại lý cấp I và các nhà tạo lập thị trường. Nghiên cứu khả năng hình thành hệ thống định giá trái phiếu và các công ty phát hành. Phối


hợp với NHNN xây dựng Hợp đồng repo chuẩn.Công bố thông tin về đấu thầu và kế hoạch phát hành trái phiếu.

3.3.3. Đối với các thành viên thị trường, bao gồm cả các hiệp hội

- Phát triển một hệ thống quản lý thông tin minh bạch và tin cậy giữa các thành viên thị trường thông qua việc nghiên cứu, xây dựng quy tắc ứng xử, gồm cả phương pháp yết giá, thoả thuận giải quyết tranh chấp giữa các thành viên và cơ chế xử lý vi phạm.

- Thống nhất việc áp dụng Hợp đồng repo chuẩn.

- Tăng cường năng lực dự báo vốn khả dụng để chủ động trong điều tiết vốn khả dụng và tận dụng tốt cơ hội đầu tư trên TTTT.

- Nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính - ngân hàng hiện có; Phát triển các dịch vụ mới (môi giới tiền tệ, quản lý danh mục đầu tư,...); Hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ phái sinh về tỷ giá và lãi suất nhằm phân tán rủi ro và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động.

- Phát triển hạ tầng kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới thích ứng các giao dịch ngân hàng điện tử hiện đại để tham gia TTTT.

- Rà soát lại chức năng của Hiệp hội ngân hàng, Hiệp hội các nhà kinh doanh trái phiếu và Hiệp hội chứng khoán. Thành viên Hiệp hội ngân hàng nên bao gồm tất cả các loại hình ngân hàng, hiện nay NH liên doanh và NH nước ngoài không phải là thành viên Hiệp hội.

- Nghiên cứu, đề xuất việc chuyển đổi chức năng của Hiệp hội ngân hàng thành một tổ chức tự điều tiết.

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro để giảm thiểu rủi ro của các giao dịch trên TTTT; Nâng cao chất lượng quản trị, điều hành, quản trị rủi ro, đào tạo cán bộ, thiết lập hệ thống cảnh báo, an toàn trong hoạt động...

3.3.4. Kiến nghị với các Bộ, Ngành liên quan về hệ thống quản lý, giám sát thị trường.

Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của các Cơ quan quản lý Nhà nước trên thị trường tiền tệ, mà quan trọng nhất là vai trò của các cơ quan như Chính phủ, NHNN, Bộ tài chính...Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời,

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí