- Để tăng sức cạnh tranh của NHTMVN khi mở rộng cửa cho NH nước ngoài đầu tư, VN cần tái cấu trúc lại hệ thống NH theo hướng hiện đại hóa; tăng vốn điều lệ tối thiểu của NH đủ sức cạnh tranh với NH nước ngoài, đồng thời cũng cố các NHTM trên địa bàn các địa phương để hạn chế sự thâm nhập và lan tỏa của các chi nhánh NH nước ngoài tại đây.
2 Chính sách đầu tư vào TTCK VN
Đầu tư của nước ngoài vào TTCK VN là hình thức thu hút vốn đầu tư gián tiếp vừa tăng cường năng lực của TTTC vừa là trợ lực tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong tương lai thị trường này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình đầu tư của nước ngoài vào VN. Do vậy cũng cần có chính sách thỏa đáng để thu hút đồng vốn này, bằng việc mở rộng thêm thị phần của vốn nước ngoài trong cơ cấu vốn đầu tư chứng khoán ở VN. Sự khuyến khích hay hạn chế luồng vốn này trong mỗi giai đoạn tùy thuộc vào chính sách tài chính – tiền tệ của Nhà nước, trong đó chính sách thuế giữ vai trò tác động trực tiếp.
3 Chính sách tỷ giá hối đoái
Gia nhập WTO cũng là quá trình hội nhập về quan hệ tỷ giá và từng bước thực hiện chức năng chuyển đổi VND trong mậu dịch đa phương và song phương. Tuy nhiên tỷ giá này về cơ bản trong quan hệ thương mại giữa VN và các nước cũng dựa căn bản vào tỷ giá so sánh giữa USD và VND làm căn cứ thanh toán. Song chính sách tỷ giá hậu WTO phải có bước đi hợp lý và thích ứng, bởi những ảnh hưởng khó lường mà nó mang lại đối với nền kinh tế VN. Việc thả nổi tỷ giá đồng VN có thể là hiện thực ở thời điểm nào đó; song trước mắt vẫn phải áp dụng tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước. Sự nóng vội trong tự do hóa tỷ giá trong những năm đầu hậu WTO cái lợi thì ít (xuất khẩu) song cái thiệt vẫn còn lớn hơn (tăng vốn nhập khẩu tăng giá bán nội địa, tăng chi phí sản xuất đối với các sản phẩm sử dụng nguyên vật liệu nhập ngoại, đội giá thành, tăng giá cả, đồng thời tăng nợ phải trả cho nước ngoài…). Nhìn chung để tiến tới tự do hóa tỷ giá hối đoái phải có một quá trình và nó chỉ có thể “an toàn” bằng thực lực của nền kinh tế VN trong tương quan với kinh tế của các nước phát triển.
4 Chính sách tài chính công
Lộ trình hội nhập hoàn toàn về tự do hóa thương mại quốc tế (5 – 7 năm), luôn ảnh hưởng đến sự ổn định trong hoạt động của tài chính công VN, mà trực tiếp
là sự tác động đến cân đối Ngân sách quốc gia (NSQG) bởi việc “đổi mới” các quan hệ tài chính – tiền tệ, nổi cộm nhất là mà lộ trình giảm thuế do VN cam kết khi gia nhập WTO. Những ảnh hưởng đó là một quá trình. Do vậy cần phải xác lập một chính sách tài khóa tương thích với những diễn biến của quá trình này theo các hướng cơ bản sau.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Điều Kiện Cần Thiết Để Phát Triển Tttt Ở Việt Nam Sau Khi Gia Nhập Wto
- Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Và Quản Trị Vốn Của Các Nhtm Việt Nam
- Nhóm Giải Pháp Thúc Đẩy Cầu Trên Thị Trường Tiền Tệ
- Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Của Tttt
- Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 28
- Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 29
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
Thứ nhất, tái bố trí cơ cấu thu – chi của hệ thống NSQG dựa trên cơ sở thực hiện lộ trình giảm thuế phù hợp với đặc điểm kinh tế, không để NS thâm hụt lớn do hẫng hụt đột biến làm giảm nguồn thu; đi đôi với điều chỉnh lại thuế suất hàng hóa tiêu thụ nội địa hợp lý, để khai thác các nguồn lực, ổn định ngân sách, tiếp tục cải cách hệ thống thuế hiện hành; đồng thời điều chỉnh lại các định mức chi và phương hướng chi NS theo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả một cách thiết thực.
Thứ hai, nguồn vốn từ NSNN, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, động lực và nền tảng theo hướng xác lập một cơ cấu kinh tế hiện đại. Chấm dứt đầu tư vốn NSNN dàn trải và phân phối theo cơ chế “xin cho” đang còn là một hiện tượng không lành mạnh trong quản lý NSNN.
Thứ ba, sử dụng vốn ODA cần tập trung vào các công trình trọng điểm, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng chủ lực nhằm tạo thế phát trtiển đồng bộ của nền kinh tế.
Thứ tư, phát hành trái phiếu, kể cả trái phiếu bằng ngoại tệ để xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia trong mọi lĩnh vực hoạt động KT – XH, tăng tích lũy cho nền KTQD.
Thứ năm, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giảm gánh nặng đầu tư của NSNN và từng bước biến vốn ngoại lực thành vốn nội lực.
Thứ sáu, huy động mọi nguồn lực đầu tư trong dân cư, ước tính khoảng 40 – 50 ngàn tỷ, hỗ trợ phát triển của kinh tế nhà nước, đồng thời tạo nguồn lực tài chính bền vững cho ngân sách.
Thứ bảy, hoàn thiện chính sách kiều hối, nhằm thu hút nguồn ngoại tệ của Việt kiều dưới mọi hình thức vì lợi ích của quốc kế dân sinh, theo đó là nguồn “chất xám” của Việt kiều đóng góp xây dựng tổ quốc.
Thứ tám, mở rộng xuất khẩu lao động, trước mắt là tạo nguồn ngoại tệ quan trọng cho Nhà nước, theo đó là tiếp thu công nghệ hiện đại và trình độ tay nghề cho người lao động khi trở về Việt Nam.
Thứ chín, chống tham nhũng, lãng phí quyết liệt và có hiệu lực trên mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế – XH và chi tiêu tuỳ tiện công quỹ Nhà nước không thể không là biện pháp lành mạnh hóa NSNN trong điều kiện hiện nay.
Ngoài ra, cải cách hành chính cũng là một nguồn lực vô hình cho đầu tư và phát triển, bởi thời gian và cơ hội về thời gian là tiền của.
3.2.3.2. Nâng cao năng lực điều hành, tính độc lập và vai trò kiểm soát TTTT của NHNN
Theo quy định tại Luật NHNN, hiện nay NHNN chưa thực sự chủ động trong điều hành CSTT quốc gia. Việc hoạch định và thực thi CSTT của NHNN vẫn còn lệ thuộc nhiều vào Chính phủ và ý kiến tham gia của các cơ quan của Chính phủ như BTC, Bộ Kế hoạch và đầu tư… Trong bối cảnh hiện nay và sắp tới, chúng ta cũng chưa thể thay đổi mạnh mẽ vị thế của NHNN, tuy nhiên có thể kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN để làm tính chủ động cho NHNN nhất là trong việc quyết định lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm.
Vai trò của NHNN trong việc trong việc chỉ đạo thị trường, chủ động tạo tính thanh khoản tốt cho thị trường là rất quan trọng. Điều này trước hết tạo tâm lý tốt cho các trung gian tài chính, mà chủ yếu là các NHTM không phải để dự trữ thanh khoản nhiều, nhất là trong những thời điểm nhu cầu rút tiền lớn. Với mức dự trữ thanh khoản phù hợp với nhu cầu rút tiền hàng ngày của nền kinh tế, thì những tác động về cung tiền và lãi suất của NHNN mới làm cho các trung gian tài chính phản ứng nhanh trước những thay đổi đó. Nhưng bên cạnh đó NHNN cũng cần hình thành cơ chế điều hành lãi suất, cùng với nghiệp vụ thị trường mở theo hướng khuyến khích các NHTM vay mượn lẫn nhau trên thị trường trước khi tiếp cận nguồn vốn NHNN. Đồng thời, việc xem xét tìm hiểu cơ chế tác động của cung tiền, lãi suất chỉ đạo đến thị trường tiền tệ, đến tăng trưởng và lạm phát trong điều kiện thị trường tiền tệ còn non yếu là vấn đề rất cần thiết. Việc tiến hành những cuộc khảo sát về phản ứng của các thành viên thị trường (bao gồm cả dân chúng và các doanh nghiệp) trước những thay đổi chính sách của cơ quan quản lý nhà nước, nhất
là lĩnh vực tiền tệ -cơ sở quan trọng để nhận định về cơ chế tác động của CSTT đến thị trường.
Đối với việc điều tiết của Ngân hàng Nhà nước Trung ương, cần xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia trong giai đoạn mới có mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển ổn định và vững chắc của nền kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam. Đồng thời NHNNTW có vai trò quan trọng đảm bảo thúc đẩy sự cạnh tranh đúng pháp luật, hợp tác chặt chẽ trên cơ sở nhiều lợi ích. NHNNTW cần phải chuyển dần sang điều hành bằng các công cụ gián tiếp phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xoá bỏ các công cụ quản lý hành chính và can thiệp sâu vào quyền tự chủ hoạt động của tổ chức tín dụng.
Về lãi suất, bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế điều hành theo hướng dần dần tự do hoá lãi suất, phù hợp với các nước trong khu vực.
Về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá, NHNN có biện pháp thắt chặt cơ chế quản lý để thực hiện được mục tiêu trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam. Mở rộng phạm vi, đối tượng được vay và mua ngoại tệ cho thanh toán với nước ngoài. Còn về cơ chế quản lý và điều hành thì theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn, vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy phát triển thị trường vốn. Cơ chế đó phải sớm phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái chung của các nước trong khu vực, tự do hoá các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát chặt chẽ vay nợ nước ngoài.
Về nghiệp vụ thị trường mở, NHNN cần trình Chính phủ và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép đưa trái phiếu kho bạc nhà nước còn thời hạn dưới 1 năm vào mua bán trên thị trường, thu hút hầu hết các thành viên tham gia mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn, linh hoạt sử dụng vốn khả dụng, còn NHNN phải điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Về thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước, NHNN cần phối hợp chặt chẽ với Bộ tài chính để vận hành thị trường này hoạt động ổn định và đều đặn. Mở rộng phát hành tín phiếu có kỳ hạn ngắn hơn nhằm tăng tỷ trọng của chúng. Thúc đẩy phát triển nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu tín phiếu và trái phiếu kho bạc nhà nước.
3.2.3.3. Chuyển dần mục tiêu điều hành từ điều tiết khối lượng sang điều tiết lãi suất.
Hiện nay, mục tiêu điều hành của NHNN chủ yếu là điều tiết khối lượng. Hàng năm, trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Chính phủ về tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác, NHNN tính toán xác định lượng tiền cung ứng tăng thêm để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hàng quý, NHNN thực hiện tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm cho từng mục tiêu như mua ngoại tệ, thực hiện cho vay tái cấp vốn (gồm NVTTM, chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG, hoán đổi ngoại tệ). Do đó, lượng tiền NHNN bơm ra qua các kênh nằm trong giới hạn phạm vi được duyệt. Trong thời gian trước đây thị trường ổn định hơn, việc điều tiết khối lượng như vậy đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thị trường có nhiều biến động khó lường trước, đòi hỏi điều hành NHNN cần linh hoạt hơn thì việc bị giới hạn bởi chỉ tiêu cung ứng tiền được xác định trước hàng năm hoặc hàng quý (mặc dù cũng có thể điều chỉnh) đã hạn chế tính chủ động của NHNN trong việc điều tiết thị trường, có thể gây ra sự biến động của lãi suất thị trường, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Chẳng hạn, trong trường hợp dự báo vốn khả dụng thiếu hụt lớn, vượt quá lượng tiền cung ứng được duyệt nếu NHNN không bơm tiền ra đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường do bị giới hạn bởi chỉ tiêu cung ứng tiền, lãi suất liên ngân hàng sẽ biến động tăng mạnh, gây bất ổn định TTTT.
Thực tế, qua các biến động lãi suất trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong giai đoạn đầu năm 2008 và hiện nay cho thấy độ nhạy cảm của nền kinh tế đối với lãi suất đã tăng lên rất nhiều. Các TCTD đã có phản ứng nhanh đối với những hành động chính sách NHNN, đặc biệt là phản ứng về lãi suất. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi phản ứng của NHNN phải linh hoạt, nhanh nhạy hơn, thì việc chuyển sang mục tiêu điều tiết lãi suất là cần thiết. Khi đó, NHNN sẽ thực hiện việc mua, bán GTCG trên NVTTM để nhằm đạt được lãi suất mục tiêu (nên là lãi suất cho vay qua đêm trên TTTT liên ngân hàng), từ thay đổi lãi suất mục tiêu này sẽ dẫn đến thay đổi lãi suất huy động, cho vay của TCTD, sau đó sẽ tác động đến hành vi tiết kiệm, đầu tư của các thành viên trên thị trường.
Với thực trạng điều kiện TTTT đang trong quá trình phát triển như hiện nay, việc chuyển từ điều tiết khối lượng sang điều tiết lãi suất nên được thực hiện từng bước theo hướng: trong từng thời kỳ cụ thể, dựa vào tình hình thực tế của TTTT, NHNN cần xác định mục tiêu ưu tiên là điều tiết khối lượng hay điều tiết lãi suất trong điều hành CSTT nói chung và NVTTM nói riêng để đảm bảo tính chủ động cũng như hiệu quả trong điều hành.
Khi TTTT phát triển hơn và điều kiện thị trường cho phép, NHNN cần chuyển sang thực hiện khuôn khổ CSTT điều tiết lãi suất để nâng cao hiệu quả, tính minh bạch trong điều hành CSTT, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.3.4. Từng bước xây dựng lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày trên NVTTM làm lãi suất định hướng thị trường.
NHNN đã triển khai điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật NHNN, theo đó các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay) bằng Đồng Việt Nam đối với khách hàng theo nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Đồng thời, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh cao hơn lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất cơ bản, để tạo nên hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm góp phần điều tiết lãi suất TTLNH; trong đó, lãi suất cơ bản và lãi suất NVTTM sẽ dao động trong hành lang này.
Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản như trên không nên áp dụng trong thời gian dài mà chỉ nên áp dụng trong điều kiện lãi suất thị trường biến động mạnh. Mặt khác, việc sử dụng cả lãi suất trần và lãi suất sàn đều là lãi suất NHNN cho vay TCTD sẽ khó tạo lập được hành lang lãi suất. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN điều hành lãi suất theo hướng như sau:
NHNN cần xây dựng hành lang lãi suất đủ rộng để tạo động lực cho TTLNH với lãi suất tái cấp vốn (lãi suất cho vay của NHNN đối với TCTD) là lãi suất trần, lãi suất tiền gửi của các TCTD tại NHNN là lãi suất sàn, cụ thể:
- Đối với lãi suất sàn: Là lãi suất tiền gửi được hình thành trên cơ sở đấu thầu hoặc do NHNN ấn định. Trong điều kiện thiếu vốn khả dụng, NHNN nên ấn định mức lãi suất này.
- Đối với lãi suất trần: lãi suất trần là lãi suất tái cấp vốn, theo đó lãi suất tái cấp vốn sẽ điều chỉnh cho phù hợp quan hệ với các loại lãi suất trên TTLNH.
- Lãi suất định hướng thị trường là lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày trong NVTTM nằm trong “hành lang” đó để phát tín hiệu rõ ràng tới thị trường. Lý do lựa chọn lãi suất định hướng thị trường là lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày là vì đây là kỳ hạn NHNN áp dụng chủ yếu trong NVTTM, do đó việc thay đổi lãi suất này sẽ có tác động lớn đối với hành vi vay vốn NHNN của TCTD, qua đó sẽ tác động đến các loại lãi suất trên TTTT, đặc biệt là lãi suất cho vay qua đêm (O/N) trên TTTT liên ngân hàng.
- Lãi suất O/N giữa các TCTD sẽ được điều tiết để biến động trong phạm vi lãi suất trần, sàn.
- Cách điều hành: Để lãi suất O/N giữa các TCTD biến động trong phạm vi lãi suất trần, sàn, NHNN phải rất linh hoạt trong việc bơm tiền ra và hút tiền về. Trong trường hợp thị trường thiếu vốn khả dụng, NHNN phải bơm một lượng tiền đủ lớn để áp dụng nhu cầu thị trường và đảm bảo lãi suất trên TTLNH phù hợp với lãi suất NHNN công bố. Ngược lại, khi thị trường dư thừa vốn khả dụng, NHNN cần hút về một lượng để đảm bảo lãi suất O/N không xuống quá thấp theo mục tiêu điều hành CSTT.
Đồng thời, trong trường hợp TCTD sau khi tham gia NVTTM vẫn thiếu vốn nhưng không vay được từ các TCTD khác thì sẽ được vay NHNN bằng mức lãi suất tái cấp vốn (lãi suất trần); hoặc nếu TCTD vẫn thừa vốn không cho vay trên TTLNH sẽ có thể gửi tại NHNN với lãi suất tiền gửi (lãi suất sàn). Cơ chế điều hành lãi suất này sẽ tạo động lực cho các TCTD vay mượn lẫn nhau trên TTTT liên ngân hàng nếu không sẽ phải đi vay NHNN với lãi suất trần (nếu thiếu vốn) hoặc chỉ được hưởng lãi suất sàn (nếu thừa vốn). Trong giai đoạn đầu áp dụng, hành lang lãi suất có thể rộng hơn, sau đó sẽ thu hẹp dần.
- Kết hợp linh hoạt, hiệu quả các công cụ điều hành CSTT (lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, NVTTM) theo hướng tập trung vào NVTTM là công cụ rất linh hoạt, nới rộng kỳ hạn giao dịch lên đến 3-4 tuần, thay vì 1-2 tuần như hiện nay, nhằm tạo sự chủ động hơn cho các TCTD giao dịch trên TTTT.
- Nghiên cứu lộ trình bãi cỏ cơ chế trần lãi suất cơ bản. Có thể mô tả cơ chế điều hành lãi suất này như sau (Xem sơ đồ 3.1).
Lãi suất tái cấp vốn (8,5%)
Vùng lãi suất thoả thuận cho lãi suất cho vay O/N
Lãi suất chào mua kỳ hạn
7 ngày (LS định hướng) 7%
Lãi suất tiền gửi (5,5%)
Sơ đồ 3.2- Cơ chế điều hành lãi suất
3.2.3.5.Nâng cao năng lực phân tích, dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát.
- Tăng cường đào tạo về kinh tế vĩ mô và kinh tế lượng, nâng cao trình độ phân tích, dự báo cho cán bộ NHNN; Trang bị mới và nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu đổi mới trong công tác phân tích, dự báo; áp dụng mô hình kinh tế lượng trong dự báo tiền tệ, xây dựng chương trình tiền tệ hàng năm và thực hiện dự báo lạm phát theo định kỳ (năm, quý, tháng).
- Trong hoạch định và điều hành CSTT, cần đặc biệt quan tâm công tác dự báo diễn biến cán cân thương mại, cán cân thanh toán, dự báo luồng vốn vào ra để có giải pháp điều hành CSTT phù hợp, hạn chế ảnh hưởng của luồng vốn đến các diễn biến tiền tệ.
- Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng tin học hoá, đảm bảo nắm bắt được đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin về tiền tệ-tín dụng; Tăng cường sự phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin giữa các Bộ, ngành, nhất là với Tổng Cục thống kê để phục vụ công tác phân tích, dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát.
3.2.3.6. Hiện đại hoá và đổi mới công nghệ hoạt động thị trường tiền tệ
- Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường tiền tệ.
Ngày 15/7/2002, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được xác định là tiểu dự án lớn nhất, quan trọng nhất trong Dự án “Hiện đại hoá Ngân hàng & Hệ thống thanh toán” do WB tài trợ. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng mới