Từ việc phân tích kinh nghiệm của các nước ở trên có thể đưa ra một số gợi ý đối với Việt Nam như sau:
Một là, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước có tầm quan trọng to lớn. Trong từng giai đoạn cụ thể Nhà nước cần sử dụng các giải pháp thích hợp để ứng phó với những biến động trên thị trường. vì vậy mỗi quốc gia cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình để xây dựng cho mình một mô hình phù hợp. Không thể có một mô hình nào chung và mô hình là lý tưởng tuyệt đối mà phải biết chọn lọc, sáng tạo, áp dụng linh hoạt. Nếu áp dụng dập khuôn máy móc thì sẽ gây ra những tác hại khôn lường. Việc nâng cao vai trò điều tiết kinh tế – xã hội của Nhà nước có vai trò quan trọng, song phải trên cơ sở tôn trọng các quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Sự điều tiết của Nhà nước thông qua hệ thống các thể chế, chính sách, công cụ điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong đó kế hoạch là công cụ có vai trò quan trọng không thể thiếu. chú trọng xây dựng và hoàn thiện kế hoạch kết cấu hạ tầng của nền kinh tế thị trường. Bởi vì, đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn lới, thu hồi vốn chậm, lợi nhuận ít.. nền thường tư nhân không làm hoặc là rất ít đảm nhận. Do vậy, Nhà nước phải chủ đạo xây dựng kế hoạch trong lĩnh vực này.
Hai là, cần quan tâm đến hệ thống các chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính, nó là động lực mạnh mẽ, tạo lực cho nền kinh tế phát triển. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một khi có sự bùng nổ xã hội thì lợi ích giai cấp thống trị cũng không được đảm bảo và ngay cả vị trí của bộ phận chóp bu cũng sẽ bị lung lay. Do vậy, giữ cho xã hội ổn định, cân bằng là chức năng hàng đầu của Nhà nước, dù bản chất Nhà nước đó như thế nào. Tuy nhiên, cần thực thi chính sách xã hội một cách linh hoạt, có mức độ và chừng mực hợp lý để hạn chế tối đa những thách thức mà nó đưa lại.
Ba là, các mục tiêu, chủ trương chính sách và đường lối phát triển kinh tế – xã hội phải được hoạch định một cách chính xác, phù hợp trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu, năng lực và điều kiện khách quan. Trong khi hành động phải luôn có những chính kiến, quyết đoán, song không cứng nhắc,
phải linh hoạt. Bởi vì, có những chính sách đề ra nhưng vì một lý do đột xuất nào đó khi vận dụng triển khai thì thị trường có phản ứng, do không phù hợp, làm cho hoạt động không hiệu quả. Trong trường hợp đó phải nghiêm túc sửa chữa.
Bốn là, cần coi trọng kế hoạch giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực. Vì con người là yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển nhất là trong điều kiện quá độ sang kinh tế tri thức. Do vậy Nhà nước cần phải giữ vai trò chủ đạo trong việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức, mở rộng các lớp đào tạo và đào tạo lại.. nhằm nâng cao trình độ học vấn cho nguồn nhân lực của đất nước.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
2.1. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG NHẬN THỨC VỀ KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ VĨ MÔ TRONG TIẾN TRÌNH CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Có thể bạn quan tâm!
- Kế Hoạch Hóa Kinh Tế Vĩ Mô Trong Nền Kinh Tế Đang Phát Triển.
- Nhật Bản: Mô Hình Kinh Tế Thị Trường Hỗn Hợp.
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 6
- Quá Trình Đổi Mới Công Tác Kế Hoạch Hoá Kinh Tế Vĩ Mô Của Việt N Am
- Những Nỗ Lực Đổi Mới Từ 1989 Đến Nay.
- Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường Việt Nam - 10
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng và bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng XHCN. Đặc điểm cơ bản của miền Bắc trong thời kỳ này là: từ nền sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Nền kinh tế miền Bắc chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cấp tự túc vừa thoát thai từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong điều kiện đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Từ đó cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung bắt đầu hình thành. Mô hình kinh tế này được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm của việc thực thi cơ chế quản lý tập trung ở Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến (1946 – 1954) và dựa theo kinh nghiệm của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các nước XHCN khác. Sau thời kỳ khôi phục kinh tế (1955 – 1957), mô hình này được bắt đầu áp dụng ở miền Bắc từ kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triền kinh tế (1958 – 1960). Theo đó, các nguồn lực chủ yếu của quá trình sản xuất như đất đai, vốn, lao động... được công hữu hoá với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể. Nhà nước quốc hữu hoá những xí nghiệp của chế độ cũ và bắt đầu xây dựng những xí nghiệp mới. Các vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do nhà nước quyết định. Về cơ bản, từ đầu những năm 1960, cơ chế kế hoạch hoá tập trung bắt đầu được vận hành ở miền Bắc, vai trò của thị trường bị hạn chế dần.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) là" phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và
hoàn thiện công cuộc cải tạo XHCN, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”. Trong nông nghiệp, phong trào hợp tác hoá phát triển mạnh mẽ. Đến đầu những năm 1960, kinh tế tập thể với hình thức chủ yếu là hợp tác xã đã chiếm vị trị ưu thế. Nhìn chung kinh tế quốc doanh và tập thể là hai hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Thị trường tự do ngày càng bị thu hẹp lại.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang được thực hiện thì chiến tranh lan rộng ra miền Bắc. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, nhân dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu, nền kinh tế tăng trưởng chậm lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Với sự viện trợ không hoàn lại của các nước XHCN, cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc tiếp tục được duy trì trong điều kiện cả nước có chiến tranh. Cho đến năm 1975, nền kinh tế miền Bắc vẫn trong tình trạng hết sức nghèo nàn và lạc hậu. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm vị trí thống trị tuyệt đối. Kinh tế tư nhân bị xoá bỏ, kinh tế cá thể tuy còn tồn tại nhưng không đáng kể.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1975) mô hình kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 – 1980) với các chỉ tiêu kinh tế xã hội quá cao đã được vạch ra: xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn dư bóc lột phong kiến. Xây dựng kinh tế quốc doanh chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông phân phối. Đối với xí nghiệp tư bản tư doanh được cải tạo bằng con đường công tư hợp doanh, xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghiệp, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Đến năm 1980, công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh phía Nam về cơ bản đã được hoàn thành. ở miền Bắc, đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, tiếp tục củng cố và hoàn thiệnquan hệ sản xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lý và chế độ phân phối. Mở rộng thành phần quốc doanh, củng cố các cơ sở quốc doanh về
mọi mặt. Kết quả là từ cuối những năm 1970, nền kinh kế nước ta đã lâm vào khủng hoảng.
Từ thực tiễn của những năm tiến hành cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH đã để lại bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Trong 20 năm (1955 – 1975) công cuộc xây dựng nền kinh tế XHCN đã hình thành mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Trong điều kiện chiến tranh, sự chỉ huy và bao cấp của Nhà nước là phù hợp, nó duy trì sự ổn định đời sống nhân dân, và tập trung nhân tài vật lực cho tiền tuyến. Nhưng sau đó nhận thức giáo điều và chủ quan duy ý chí, đã mở rộng xây dựng CNXH theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp trên phạm vi cả nước trong điều kiện lực lượng sản xuất còn thấp kém. Điều này làm cho quan hệ sản xuất thoát ly khỏi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Vì vậy, quan hệ sản xuất mới được hình thành nhưng chỉ là hình thức, chưa tạo điều kiện thúc đẩy, thậm chí còn kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong những năm 1979 – 1985, trước những khó khăn của sản xuất, và đời sống của nhân dân, Đảng và Chính phủ đã có một số biện pháp cải tiến quản lý kinh tế. Tại Hội nghị TW 6 khoá IV (9/1979) chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế – xã hội và đổi mới công tác kế hoạch hoá theo hướng kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp lợi ích của Nhà nước với lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động nhằm khuyến khích sản xuất Nghị quyết này đã có tác dụng nhất định đối với sự chuyển đổi nền kinh tế.
Tuy vậy, trong thời gian này chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tư duy kinh tế cũ, quan điểm đổi mới chưa hình thành một cách hệ thống nó chỉ thay đổi từng mặt mà nhất là không đi vào vấn đề mấu chốt của mô hình kinh tế là chế độ sở hữu và vẫn né tránh vấn đề kinh tế thị trường. Thực tế, cải tiến cơ chế quản lý vẫn diễn ra trong khuôn khổ của mô hình kinh tế cũ. Vì vậy những chính sách, giải pháp đề ra mang tính chắp vá, thiếu tính đồng bộ, chỉ là giải
pháp tình thế nên kết quả đạt được rất hạn chế. Đặc biệt những sai lầm trong tổng điều chỉnh giá, lương, tiền năm 1985 khiến lạm phát, giá cả gia tăng, khủng hoảng kinh tế – xã hội diễn ra trầm trọng ở nước ta.
Trước tình hình khó khăn đó, Đại hội VI (1986) của Đảng đã chủ trương tiến hành xoá bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung và thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Nội dung chính của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả nhà nước, đồng thời thực hiện mở cửa nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong những năm bắt đầu đổi mới, do còn mang nặng tư duy chủ quan, duy ý chí nên có nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, nên đã có nhiều ý kiến cho rằng cần xoá bỏ hoàn toàn vai trò của kế hoạch và đề cao vai trò của thị trưòng. Song Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là"chính sách kinh tế mới” của V.I Lênin vào Việt Nam nhằm "phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH” (Đại hội VI). Tại Đại hội VII và tiếp đó là Đại hội VIII Đảng ta đã khái quát về phương hướng phát triển trên lĩnh vực kinh tế là:" Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế xã hội chủ nghĩa”; phát triển nên kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Đó chính là nhận thức mới về cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Thứ nhất, sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới. Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp, hướng dẫn các đơn vị kinh tế chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức
sản xuất kinh doanh. Thứ tư, vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhằm phát huy tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn ngừa hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường bằng pháp luật, bằng cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của kinh tế nhà nước.
Như vậy, nhận thức về thị trường, cơ chế thị trường và mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường ở nước ta theo tinh thần đổi mới đã được xác lập và từng bước được bổ sung, hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội Đảng. Khái niệm" kinh tế thị trường định hướng XHCN" đã được thông qua tại Đại hội IX của Đảng. Đó là sự diễn đạt ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần cơ bản của những quan điểm do Đại hôị VIII nêu ra và đặc biệt nói rò mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Thống nhất sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Đây cũng chính là bước phát triển mới trong nhận thức về tư duy lý luận của Đảng ta.
Quan điểm của Đảng chỉ rò rằng: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta cần có không phải là nền kinh tế quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp. Đó là một nền kinh tế hàng hoá phát triển, tức là kinh tế thị trường hiện đại và đã là kinh tế thị trường thì cơ chế vận hành vốn có của nó – cơ chế thị trường. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, nền kinh tế thị trường đều có sự quản lý của nhà nước. Cho nên tính đặc thù của nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng so với các nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng so với các nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải ở chỗ có hay không có sự quản lý của Nhà nước, mà ở định hướng XHCN của nó. Mục đích của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bước xây dựng thành công CNXH . Sử dụng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý kinh tế của kinh tế thị trường nhằm kích thích
sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, không để cho thị trường tự phát theo con đường TBCN. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường không phải đoạn tuyệt với kế hoạch mà để thực hiện kế hoạch một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của Nhà nước chính là sự kết hợp tính năng động và nhạy bén của cơ chế thị trường với tính định hướng và cân đối của kế hoạch để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường đối với chúng ta không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện.
Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán trao đổi theo quy luật giá trị. Cơ chế thị trường vận động dưới sự tác động của các quy luật thị trường, trong đó quy luật giá trị giữ vai trò chi phối. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường. Mục tiêu chủ yếu của các chủ thể hoạt động trên thị trường là lợi nhuận. ở đây mục tiêu lợi nhuận đạt được thông qua việc thực hiện các biện pháp kinh tế như tiết kiệm, tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh... và thích ứng với quan hệ cung, cầu, quan hệ cạnh tranh. Bên cạnh đó kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như: khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tiêu cực và tệ nạn xã hội.
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một sự chuyển hướng lớn lao, một sự thay đổi sâu sắc trong xây dựng kinh tế của nước ta. Trong quá trình này vấn đề giữ vững định hướng XHCN được đặt ra như một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược. Bởi vì, quá độ lên CNXH được hay không trước hết phụ thuộc công cuộc xây dựng một nền kinh tế có giữ được định hướng XHCN hay không? Điều này được xác định bời Nhà nước pháp quyền