Nhận Xét Chung Về Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Và Những Vấn Đề Đặt Ra Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu


(kinh tế, xã hội, môi trường), đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển bền vững của du lịch Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, đề xuất một số giải pháp cơ bản để khắc phục những yếu kém, thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển bền vững hơn trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Có thể kể đến những công trình nghiên cứu khác trong nước với các hướng nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững như: “Tài nguyên du lịch”của Bùi Thị Hải Yến [120]; “Việt Nam văn hóa và du lịch” của Trần Mạnh Thường [91]; “Du lịch và Du lịch sinh thái” của Thế Đạt [32]; “Du lịch sinh thái” do tác giả Lê Huy Bá làm Chủ biên [1]; “Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với du lịch Việt Nam bước sang thập kỷ tới 2011-2020” của Hà Văn Siêu [69]... Các công trình nói trên đề cập đến một số khía cạnh lý luận liên quan đến phát triển du lịch bền vững; đồng thời phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch của một số địa phương, điểm đến, trong một số loại hình du lịch, trong bối cảnh và những điều kiện cụ thể. Những nội dung lý luận và những giải pháp thực tế trong các bài viết có ý nghĩa tham khảo nhất định cho đề tài luận án của tác giả.

1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

- Các nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững đã xuất hiện trên thế giới từ khoảng cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về vấn đề này được đặt ra sau đó, trên cơ sở tiếp cận, tiếp thu những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của quốc tế. Từ đó đến nay, phát triển du lịch bền vững ngày càng thu hút sự quan tâm nhiều hơn của các nhà nghiên cứu, vừa bởi ý nghĩa của vấn đề này với các quốc gia, các nền kinh tế - xã hội cả trước mắt cũng như lâu dài; vừa vì việc nghiên cứu và thực hành phát triển du lịch bền vững đã trở thành yêu cầu mang tính thời sự và ngày càng trở nên bức thiết hơn cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế trong thời đại ngày nay. Số lượng các nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững ngày càng phong phú, đa dạng hơn.

- Khái quát chung tình hình nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững cho thấy:

+ Phần lớn các nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững xuất phát từ góc nhìn của phát triển bền vững nói chung để hình thành nên những nội dung lý


luận về phát triển du lịch bền vững. Chính vì vậy, các yếu tố có tính nguyên tắc chung, các trụ cột của phát triển bền vững cũng đều được thể hiện trong khung lý thuyết về phát triển du lịch bền vững, đó là các yếu tố, khía cạnh về kinh tế, văn hóa - xã hội và tài nguyên môi trường, sự cân đối và tương tác giữa các yếu tố đó, cân đối giữa phát triển trước mắt và phát triển lâu dài nhằm đảm bảo mục tiêu bền vững dài hạn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

+ Các quan điểm lý luận về phát triển du lịch bền vững đã dần đi đến những điểm chung nhất về những vấn đề lớn và có tính bao trùm; khung lý thuyết về phát triển du lịch bền vững ngày một được bổ sung hoàn chỉnh hơn. Các công trình nghiên cứu, ở từng thời điểm cụ thể, với chủ đề, quy mô, phương pháp tiếp cận khác nhau đã khai thác khá đa dạng, ở nhiều góc độ và mức độ về phát triển du lịch bền vững. Nhiều công trình khá công phu về lý luận, có sự bổ sung, cập nhật các thành tựu cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Các nghiên cứu về sau có xu hướng ngày càng tiếp cận sâu và chi tiết những vấn đề cụ thể, có tính ứng dụng trực tiếp vào thực tế, gắn với yếu tố bền vững trong một số loại hình, sản phẩm du lịch, với một số khía cạnh của phát triển du lịch bền vững và nghiên cứu vận dụng các nội dung lý luận chung về phát triển du lịch bền vững cho xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, hoạch định chính sách và đề xuất các biện pháp phát triển du lịch bền vững ở các vùng miền, khu vực, địa phương, điểm đến du lịch cụ thể.

+ Do tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng và xã hội hóa rất cao của hoạt động du lịch nên vấn đề phát triển du lịch bền vững thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ chuyên ngành như kinh tế, môi trường, địa lý, văn hóa, lao động xã hội... Các công trình nghiên cứu trong nước về phát triển du lịch bền vững phần nhiều được tiếp cận, trình bày dưới góc độ của các chuyên ngành quản lý kinh tế, kinh tế môi trường, tài nguyên, môi trường, văn hóa. Các công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề phát triển du lịch bền vững dưới góc độ kinh tế phát triển chưa nhiều.

Phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ - 5

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Một là, vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất hoàn toàn về khái niệm, nội dung, tiêu chí và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững.


- Một số tác giả tiếp cận nội dung theo nội hàm ba trụ cột của phát triển bền vững (phát triển kinh tế, xã hội và môi trường theo hướng bền vững); một số tác giả khác tiếp cận nội dung theo hướng làm gì để phát triển du lịch bền vững, theo đó các nội dung chủ yếu của phát triển du lịch bao gồm quy hoạch và kế hoạch phát triển du lịch; huy động và sử dụng các nguồn lực theo hướng hiệu quả...

- Từ cách tiếp cận khác nhau về nội dung phát triển du lịch bền vững dẫn đến sự thể hiện khác nhau về nội dung, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững.

Hai là, mức độ tương quan như thế nào để được coi là “kết hợp” hoặc “cân đối hợp lý” giữa ba trụ cột kinh tế, xã hội và tài nguyên môi trường trong phát triển du lịch bền vững chưa được phân tích sâu ở góc độ lý thuyết chung. Đây là vấn đề phức tạp, khó đưa ra một phương án chung mang tính định lượng về các mối tương quan này để có thể áp dụng cho tất cả các mô hình thực hành phát triển du lịch bền vững, trong mọi giai đoạn phát triển. Song, để phát triển du lịch bền vững có tính khả thi trên thực tế, vấn đề này cần được nghiên cứu sâu hơn, gắn với không gian, thời gian và các điều kiện cụ thể mà lý thuyết về phát triển du lịch bền vững sẽ được vận dụng.

Ba là, các công trình nghiên cứu lý luận về phát triển du lịch bền vững đều tiếp cận và phân tích vấn đề nghiên cứu ở khía cạnh mục tiêu hướng đến, những yêu cầu và nguyên tắc của sự phát triển dưới góc độ quản lý kinh tế, chưa có công trình nào tiếp cận và phân tích sâu về mặt lý luận để làm rõ các nội dung, đặc biệt là đặc điểm của phát triển du lịch bền vững.

Bốn là, hệ thống tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững chưa có sự thống nhất, phần lớn các công trình mới chỉ đưa ra các tiêu chí định tính, khó cụ thể hóa thành các chỉ tiêu đánh giá phát triển du lịch bền vững có tính khả thi để áp dụng trên thực tế; chưa có công trình nào phân tích và đề xuất được bộ tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững phù hợp với phạm vi, quy mô, đặc thù về điều kiện phát triển du lịch, năng lực phân tích, đánh giá của các địa phương cấp tỉnh.

Năm là, vấn đề nghiên cứu ở cấp độ Tiến sĩ, dưới góc độ kinh tế phát triển về phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ - với những đặc trưng riêng về điều kiện tự nhiên, văn hóa và xã hội - chưa được công trình nào đặt ra. Vì vậy, có thể khẳng


định, đề tài “Phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ” không trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã công bố trong và ngoài nước.

Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã công bố, Luận án nghiên cứu đề tài “Phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ” tiếp tục giải quyết những vấn đề cụ thể sau:

- Về mặt lý luận:

+ Hệ thống hóa và đề xuất khái niệm, nội dung phát triển du lịch bền vững, đề xuất bộ tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững ở địa phương cấp tỉnh;

+ Phân tích đặc điểm và vai trò của phát triển du lịch bền vững;

+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững ở địa phương cấp tỉnh;

- Về thực tiễn:

+ Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng mô hình phát triển du lịch bền vững ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ, một số địa phương, khu du lịch trong nước và rút ra những giá trị tham khảo cho phát triển du lịch bền vững ở cấp tỉnh.

+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển du lịch Phú Thọ trên cơ sở các nội dung lý luận chung về phát triển du lịch bền vững; chỉ rõ những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phát triển du lịch của tỉnh Phú Thọ dưới góc độ phát triển bền vững; phân tích những cơ hội và thuận lợi, khó khăn và thách thức của Phú Thọ cho phát triển du lịch bền vững;

+ Đề xuất mục tiêu, định hướng, giải pháp phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.


Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH


2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG

2.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển du lịch bền vững

2.1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững

Khái niệm phát triển bền vững từng bước được hình thành cùng với quá trình nhận thức về phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của các quốc gia trên thế giới. Đối mặt với những hậu quả do tham vọng thúc đẩy phát triển kinh tế thật nhanh chóng từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, con người bắt đầu nhìn nhận về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên và sự cần thiết phải gắn các mục tiêu về tiến bộ xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Vào khoảng những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường được công bố. Năm 1980, thuật ngữ “phát triển bền vững” lần đầu tiên được đề cập trong bản Chiến lược bảo tồn thế giới do IUCN, với sự hợp tác của UNEP và WWF công bố, với nội dung: “để sự phát triển bền vững thì cùng với yếu tố kinh tế, nó phải tính đến cả các yếu tố xã hội và sinh thái; yếu tố tài nguyên tái tạo và không tái tạo; và tính đến những thuận lợi, khó khăn cả trước mắt cũng như lâu dài trong các phương án hành động” [130, tr.11].

Năm 1987, báo cáo Tương lai chung của chúng ta (còn gọi là Báo cáo Brundtland) do WECD ấn hành đưa ra quan điểm của Liên hiệp quốc về phát triển bền vững, theo đó phát triển bền vững được hiểu là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” [149, tr.43].

Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc họp tại Rio de Janeiro (Brazil) thông qua Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) [141]. Với 27 nguyên tắc trong Tuyên bố, cùng 40 nhóm nội dung được thể hiện trong Chương trình nghị sự, quan niệm về phát triển bền vững được hoàn chỉnh hơn, không chỉ bao gồm các yếu tố tăng trưởng gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, mà còn đề cập đến các


khía cạnh về bảo đảm sự tiến bộ xã hội cho con người trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển. Các nội dung này tiếp tục được khẳng định và nhấn mạnh tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững (WSSD) họp tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002. Theo đó, quan niệm về phát triển bền vững được Liên hiệp quốc đưa ra là: “bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống” [141, tr.15,16; 142, tr.16]. Phát triển bền vững theo quan điểm của Liên hiệp quốc tập trung vào ba khía cạnh (trụ cột) mà sự phát triển đó muốn đạt đến là: bền vững về mặt kinh tế; bền vững về mặt xã hội; bền vững về môi trường sinh thái.

Bước sang thế kỷ XXI, trước những diễn biến mới của các yếu tố toàn cầu hóa, hội nhập và biến đổi khí hậu với xu hướng ngày càng nhanh hơn, quan điểm phát triển bền vững với ba trụ cột của sự phát triển một mặt nhìn chung tiếp tục nhận được sự đồng thuận từ nhiều nghiên cứu cũng như tại các chương trình nghị sự lớn của thế giới (như RIO+20, COP 21), mặt khác nội hàm của các trụ cột, phạm vi của sự phát triển được mở rộng, đề cập sâu hơn các vấn đề toàn cầu mà mọi quốc gia đều phải đối mặt.

Ở Việt Nam, quan điểm về phát triển bền vững được tiếp cận nghiên cứu và từng bước vận dụng trong hoạch định chủ trương, chính sách phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Năm 1991, bản Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000 được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành, trong đó một số nội dung được tiếp cận theo quan điểm phát triển bền vững của quốc tế ở thời điểm đó. Tại Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị khẳng định quan điểm “bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [4]. Quan điểm phát triển bền vững được bổ sung và khẳng định rõ hơn trong các Văn kiện của Đảng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con đường phát triển kinh tế - xã hội của nước ta là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [28, tr.162]. Các văn kiện Đại hội


Đảng các khóa X, XI tiếp tục nhấn mạnh quan điểm này. Đại hội XII nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững, đồng thời bổ sung định hướng “Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu” [31, tr.270] và chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu

- một mô hình thực định của phát triển bền vững.

Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ Quyết định ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam), trong đó đã đưa ra mục tiêu tổng quát và các nguyên tắc chính để phát triển bền vững [86]. Những mục tiêu này tiếp tục được khẳng định, bổ sung phù hợp trong Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 ban hành năm 2012, với nội dung “Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến độ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia” [88, tr.2]. Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cũng xác định ba nhóm định hướng ưu tiên nhằm phát triển bền vững trong cả giai đoạn, tương ứng với ba khía cạnh của phát triển bền vững (gồm các định hướng ưu tiên về kinh tế, về xã hội, về tài nguyên và môi trường). Luật Bảo vệ môi trường do Quốc hội thông qua ngày 23/6/2014, tại khoản 4, Điều 3 đưa ra định nghĩa về phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” [65].

Như vậy, có thể thấy trong các nghiên cứu cũng như các chương trình nghị sự của thế giới và ở Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững ngày càng được bổ sung và đã đi dần đến những nhận thức chung nhất về nội hàm của khái niệm này, trong đó cho rằng phát triển bền vững là sự phát triển đạt được sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý giữa cả ba khía cạnh (trụ cột) kinh tế, xã hội và môi trường.

Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ giữa ba trụ cột của phát triển bền vững như thế nào là “hài hòa”, “chặt chẽ”, “hợp lý” thì nhìn chung các nghiên cứu lại chưa có sự chú ý đầy đủ hoặc chưa thống nhất về quan điểm. Gần đây, một số nghiên cứu về phát triển bền vững, đặt trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội


nhập quốc tế và biến đổi khí hậu đã tập trung phân tích sâu hơn về vấn đề này. Theo các tác giả Ngô Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng, phát triển bền vững là:

Sự phát triển dựa trên kết hợp giữa nội lực của Việt Nam với sức mạnh của hội nhập quốc tế, nhằm tạo ra và duy trì được trước hết là sự bền vững trong tăng trưởng kinh tế. Đồng thời những thành quả đạt được của tăng trưởng kinh tế vừa có sự lan tỏa tích cực, vừa chịu sự ràng buộc bởi yêu cầu của các khía cạnh xã hội và môi trường, hướng tới mục tiêu phát triển vì con người [52, tr.105].

Tác giả thống nhất việc cần làm rõ hơn nội hàm và mối quan hệ, sự ràng buộc, liên kết cũng như tương quan giữa các trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường trong phát triển bền vững như quan điểm tiếp cận trên. Trên cơ sở đó, trong luận án này tác giả cho rằng: “Phát triển bền vững là sự phát triển đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững đồng thời thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội ngày càng cao và dựa trên cơ sở khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường và phát triển các tài nguyên có khả năng tái sinh”.

Trong định nghĩa vừa nêu, phát triển bền vững bao gồm ba nội dung (trụ cột) cơ bản sau:

- Tăng trưởng kinh tế bền vững: Tăng trưởng với tốc độ cao hợp lý, ổn định dài hạn. Tăng trưởng có chất lượng trên cơ sở khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển và gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo xu hướng tiến bộ.

Tốc độ tăng trưởng cao hợp lý và ổn định dài hạn được đánh giá bởi các thước đo (tiêu chí) được xây dựng phù hợp với tiềm năng các nguồn lực và tốc độ đó phải đạt được trong dài hạn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo xu hướng tiến bộ là sự chuyển dịch hướng tới một cơ cấu kinh tế - xã hội có khả năng phát huy tốt nhất hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng ổn định, gia tăng năng lực nội sinh cho nền kinh tế.

- Tăng trưởng kinh tế bền vững đồng thời thúc đẩy tiến bộ và công bằng về xã hội đạt được ngày càng cao hơn: Tăng trưởng kinh tế cao hợp lý và ổn định tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội tham gia làm việc, tỷ lệ thất nghiệp giảm,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/03/2023