Khái Niệm Bộ Môn, Trưởng Bộ Môn Và Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn

Như vậy, với sứ mệnh của mỗi trường ĐH, có thực hiện được hay không, không chỉ cần sự góp sức của toàn thể cán bộ, viên chức trong nhà trường mà mỗi bộ môn có vị trí đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ trọng tâm trong trường ĐH là GD&ĐT và NCKH. Các hoạt động này phải được triển khai từ đơn vị thấp nhất nhưng quan trọng nhất đó là cấp bộ môn. TBM không chỉ đóng vai trò là người quản lý chuyên môn mà còn là người quản lý, điều hành rất nhiều lĩnh vực khác nhau. TBM trong mỗi trường ĐH, đặc biệt là trường ĐHNC luôn đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định, tiêu chuẩn hay khung năng lực chi tiết nào cho đội ngũ này. Điều lệ trường ĐH cũng chỉ nhắc chung chung các điều kiện, tiêu chuẩn, năng lực của TBM hoặc quy định của các trường cũng chỉ trên cơ sở nhắc lại quy định của Điều lệ trường ĐH, chưa cụ thể hóa được các tiêu chuẩn, tiêu chí hay khung năng lực cho vị trí này và đặc biệt cụ thể hóa nó vào từng trường cụ thể.

Trong khi đó, những kết quả nghiên cứu về phát triển NNL mới chỉ đề cập tới những vấn đề chung của NNL và từng bước giải quyết, tháo gỡ các khó khăn trước mắt của những vấn đề cơ bản này. Hiện nay, vấn đề phát triển đội ngũ CBQL chuyên môn trong trường ĐH nói chung, ĐNTBM nói riêng chưa được đề cập đến, chưa có nghiên cứu nào đề xuất xây dựng khung năng lực chuẩn cho đội ngũ này, đặc biệt là cho ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC ở Việt Nam.

Nhận xét chung:

- Giá trị mà các nghiên cứu trên đã đạt được là:

+ Giúp NCS xác định được một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển ĐNTBM bắt đầu từ vị trí, vai trò của họ trong trường ĐH, đặc biệt là trong trường ĐHĐHNC. Họ đều khẳng định phát triển ĐNTBM là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.

+ Các nhà QLGD chỉ ra rằng có nhiều cách tiếp cận khi nghiên cứu về ĐNTBM, nhưng tiếp cận năng lực và tiếp cận quản lý phát triển NNL phát huy hiệu quả nhất khi nghiên cứu vấn đề phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC.

+ Các tài liệu nghiên cứu tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau để chỉ ra những nội dung, quy trình phát triển ĐNTBM cần thiết mà trường ĐHĐHNC phải thực hiện để nâng cao chất lượng đội ngũ này. Phân tích những đặc thù của trường ĐHĐHNC và các yêu cầu về ĐNTBM làm căn cứ cho việc hình thành khung lý luận về phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC.

+ Các tài liệu công bố chỉ rõ quan điểm: Việc phát triển ĐNTBM trong trường ĐH nói chung đều luôn phải đối mặt với các thuận lợi, khó khăn do chịu ảnh hưởng, tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế các hoạt động quy hoạch, ĐT-BD, đánh giá và áp dụng chính sách đãi ngộ, tạo động lực cho ĐNTBM hướng tới đảm bảo tiêu chuẩn nghề nghiệp là chìa khóa để giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên, những hoạt động này phải được thực hiện dựa trên mối quan hệ quản lý NNL nói chung, trong bối cảnh thực tiễn ở Việt Nam và hội nhập quốc tế.

+ Các nghiên cứu cung cấp cho NCS bức tranh toàn cảnh về phát triển ĐNTBM trong bối cảnh thực tiễn ở Việt Nam. Với mục tiêu phát triển ĐNTBM làm nền tảng để nâng cao chất lượng đào tạo và NCKH, các trường ĐH nói chung và trường ĐHĐHNC nói riêng đã và đang không ngừng nỗ lực tìm kiếm các giải pháp phù hợp.

- Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế, cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.

+ Mặc dù các tài liệu nghiên cứu đã hình thành khung lý thuyết về phát triển ĐNTBM trong trường ĐH, nhưng lại chưa có lý luận đầy đủ về phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC dựa trên nền tảng điều kiện khách quan và chủ quan đặc thù của nhà trường trong mối quan hệ tương quan với hệ thống GDĐH của quốc gia. Các nghiên cứu về phát triển CBQL giáo dục khá đầy đủ nhưng chưa xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá về năng lực ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC. Các nghiên cứu trong nước cũng đã hướng tới xu thế chuẩn hóa ĐNTBM, nhưng mới chỉ nhìn nhận ở từng góc độ, nội dung cụ thể của phát triển đội ngũ và hướng tới chuẩn hóa trên cơ sở các vị trí đã có bộ tiêu chuẩn. Việc chuẩn hóa đến TBM chưa được quan tâm nhiều.

Mới chỉ tồn tại lý thuyết về phát triển NNL QLGD nói chung mà chưa có lý thuyết về phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC. Các công trình nghiên cứu còn mang tính tổng quát, chưa hệ thống. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể, độc lập về phát triển ĐNTBM trong các trường ĐH. Bên cạnh đó, lý thuyết về phát triển đội ngũ QLGD nói chung chưa nêu bật được đặc trưng riêng có của phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC như điều kiện, tiêu chuẩn, yếu tố ảnh hưởng… và xu hướng phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC trong bối cảnh hiện nay.

Phát triển đội ngũ trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu ở Việt Nam nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội - 5

+ Chưa có khung lý thuyết về phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC với nội dung và quy trình rõ ràng làm nền tảng cho nghiên cứu thực tiễn. Đặc biệt, thiếu vắng những nghiên cứu hướng tới phát triển ĐNTBM đủ về số lượng, có cơ cấu hợp

lý, đảm bảo chất lượng với các hoạt động cụ thể của chủ thể quản lý nhằm phát triển đội ngũ này.

+ Chưa có lý thuyết về đánh giá đối với công tác phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC trong mối quan hệ với các yếu tố ảnh hưởng.

+ Chưa có những nghiên cứu mà đối tượng chỉ tập trung vào phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC ở Việt Nam với đầy đủ các đánh giá về nội dung, quy trình phát triển đội ngũ.

+ Chưa có nghiên cứu về ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC mà vấn đề này thường được nghiên cứu ở một khía cạnh trường ĐH nói chung nên chưa làm nổi bật được đặc trưng của trường ĐHĐHNC và vai trò của ĐNTBM. Chưa có nghiên cứu nào đưa ra cái nhìn tổng thể về sự phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC với những đặc thù cũng như đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng trong mối tương quan với sự đổi mới GDĐH của đất nước và hội nhập quốc tế.

+ Các giải pháp đưa ra để phát triển ĐNTBM mới dành cho trường ĐH thông thường, chưa hướng tới sự vận dụng lý thuyết phát triển NNL vào phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC theo quy trình phát triển và thực hiện đồng bộ các khâu trong quy trình phát triển.

1.1.4. Vấn đề đặt ra cho luận án

Sau khi tổng quan các nghiên cứu có liên quan, có thể rút ra kết luận:

- Thứ nhất, phát triển ĐNTBM là một tất yếu khách quan và là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của mỗi trường ĐH nói chung và trường ĐHĐHNC nói riêng.

- Thứ hai, để có thể phát triển ĐNTBM hiệu quả, khai thác hết năng lực đội ngũ này, các nhà quản lý cần phải có những biện pháp phù hợp và thường xuyên.

- Thứ ba, hiện chưa có nghiên cứu đầy đủ cả lý luận và thực tiễn về phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế với nhiều biến động.

Các vấn đề trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có nghiên cứu mới để có thể khắc phục những bất cập đang có và nâng cao năng lực ĐNTBM để giúp các trường ĐHĐHNC phát triển xứng tầm. Vì vậy, NCS lựa chọn đề tài “Phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC ở Việt Nam (nghiên cứu trường hợp ĐHQGHN)” để có được sự nghiên cứu sâu rộng về nội dung, quy trình phát triển ĐNTBM trong trường

ĐHĐHNC đáp ứng tiêu chuẩn trong bối cảnh đổi mới GDĐH với mục đích có thể ứng dụng trong quản lý và phát triển ĐNTBM trong các trường ĐHĐHNC ở Việt Nam một cách phù hợp, hiệu quả nhất. Đề tài luận án này cũng không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu nào đã có. Trong luận án, NCS sẽ kế thừa những giá trị nghiên cứu như những khảo sát, số liệu hay hệ thống cơ sở lý luận trong phạm vi nghiên cứu của mình, đồng thời cũng có các đóng góp riêng có thể bổ sung cho những thiếu sót mà những tài liệu trước chưa đưa ra.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Khái niệm bộ môn, trưởng bộ môn và đội ngũ trưởng bộ môn

1.2.1.1. Bộ môn

Trên thế giới, cấu trúc các cơ sở GDĐH không hoàn toàn đồng nhất như nhau. Có cơ sở GDĐH vận hành theo 4 cấp quản lý: Cấp cao nhất là ĐH (ví dụ: ĐH Harvard, ĐH California...); cấp dưới trực tiếp của các ĐH này là trường thành viên gọi là School và cũng có thể gọi là Faculty (dịch sang tiếng Việt là khoa nhưng thực chất là trường con); cấp dưới trực tiếp của các trường con này được gọi là Academic Department tương đương khái niệm cấp khoa thường gọi ở trường ĐH của Việt Nam; cấp cuối cùng của các ĐH này chính là bộ môn mà tiếng Anh gọi là Devision và các đơn vị tương đương như phòng thí nghiệm, labo, trung tâm, nhóm nghiên cứu...

Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành của Luật GDĐH, cơ sở GDĐH gồm có: “ĐH, học viện và trường ĐH”. Các “ĐH” được thành lập năm 1993-1994 gồm có 02 ĐHQG (ĐHQGHN, ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh) và 03 ĐH vùng (ĐH Huế, ĐH Đà Nẵng, ĐH Thái Nguyên) - ở đây có các trường ĐH thành viên. Các ĐHQG và ĐH vùng thì có 03 cấp quản lý là: cấp ĐHQG, cấp trường và cấp khoa. Ngoài ra, có hàng trăm trường chỉ có 02 cấp trong cấu trúc bộ máy, đó là Trường - Khoa. Riêng bộ môn được coi là đơn vị chuyên môn. Khái niệm bộ môn và đơn vị tương đương được vận dụng đa dạng trong các cơ sở GDĐH ở Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm bộ môn và các đơn vị tương đương dùng trong luận án này sẽ là khái niệm được định danh tại Điều 14 Luật GDĐH [101] và Điều 16 Điều lệ trường ĐH [111]: “Bộ môn là đơn vị chuyên môn thuộc khoa trong trường ĐH”.

Cụ thể hơn, Cao Cự Giác đã đưa ra định nghĩa: “Bộ môn là đơn vị chuyên môn của trường dưới sự chỉ đạo trực tiếp của trưởng khoa và hiệu trưởng, thực hiện công tác

đào tạo, NCKH; trực tiếp quản lý viên chức của đơn vị nhằm đảm bảo công tác chuyên môn của bộ môn, của khoa và trường; tham gia giáo dục, rèn luyện sinh viên” [36].

Trần Thị Hảo thì cho rằng: “Bộ môn là nơi trực tiếp tổ chức và quản lý những hoạt động sinh hoạt chuyên môn, trực tiếp xây dựng đề cương môn học, định hướng phương pháp dạy học phù hợp, tổ chức các hoạt động về chuyên môn sâu trong hiện thực hóa kế hoạch hoạt động của khoa, các biện pháp nâng cao năng lực giảng dạy, NCKH, nâng cao chất lượng đội ngũ cho giảng viên” [50].

Nguyễn Thị Hậu lại đưa ra một khái niệm đơn giản: “Bộ môn là đơn vị chuyên môn thuộc khoa trong trường ĐH. Quy định về tổ chức và hoạt động của bộ môn được thể hiện cụ thể trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường” [52].

Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa chung về bộ môn như sau: “Bộ môn là đơn vị chuyên môn về đào tạo, KH&CN của một hoặc một số ngành, chuyên ngành đào tạo thuộc khoa trong trường ĐH, cao đẳng. Hoạt động của bộ môn theo quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường, trực tiếp thực hiện các hoạt động để giúp nhà trường đạt được mục tiêu đặt ra”.

1.2.1.2. Trưởng bộ môn

Trưởng bộ môn vừa là người lãnh đạo, vừa là người quản lý chuyên môn trong trường ĐH. Hiện có hai cách phân loại CBQL, đó là phân loại theo cấp quản lý và phân loại theo chức năng quản lý:

- Phân loại theo cấp quản lý, CBQL gồm: Trưởng khoa là người quản lý cấp khoa, còn hiệu trưởng là người quản lý cấp trường. TBM không giữ vai trò quản lý hành chính.

- Phân loại theo chức năng: Người quản lý theo chức năng là người có trách nhiệm giám sát, theo dõi, đôn đốc hoạt động của người dưới quyền theo một chuyên môn hoặc kỹ năng hẹp, hoạt động trong một phạm vi rất chuyên biệt. Theo quan niệm này, TBM là người quản lý theo chức năng hay người quản lý chuyên môn, là trưởng bộ phận phụ trách trực tiếp một hoặc một số chuyên ngành, học phần, lĩnh vực nghiên cứu thuộc khoa trong trường và chủ yếu là lãnh đạo, quản lý chuyên môn, học thuật, hành chính sư phạm của bộ môn và ĐNGV.

Theo Điều lệ trường ĐH [111], TBM là giảng viên cơ hữu, người đứng đầu bộ môn thuộc khoa trong trường ĐH. TBM vừa là cán bộ lãnh đạo cấp trưởng, vừa là cán

bộ quản lý chuyên môn của bộ môn. TBM phải có đủ tiêu chuẩn của giảng viên ĐH, có kinh nghiệm giảng dạy, NCKH và năng lực quản lý, có trình độ tiến sĩ. TBM có nhiệm kỳ 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại. Độ tuổi bổ nhiệm của TBM phải bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được ít nhất 01 nhiệm kỳ. Tuy nhiên, những quy định cứng nhắc này hiện không còn thực sự phù hợp với yêu cầu đổi mới hoạt động của ĐNTBM, đặc biệt là trong trường ĐHĐHNC. Lý do và đề xuất, kiến nghị các hướng khắc phục các hạn chế này sẽ được NCS trình bày ở phần giải pháp và khuyến nghị của luận án.

Như vậy, có thể quan niệm: TBM là người đứng đầu bộ môn, có trình độ và uy tín chuyên môn cao, có năng lực lãnh đạo và quản lý, thiên về quản lý các hoạt động chuyên môn (đào tạo và NCKH), tác động đến đối tượng quản lý là những người có tri thức, trình độ cao. Đây chính là điểm đặc biệt nổi bật của chủ thể quản lý cũng như khách thể quản lý.

1.2.1.3. Đội ngũ trưởng bộ môn

Đội ngũ được hiểu là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp, nhưng đều có chung một mục đích nhất định [111]. Trong một tổ chức, đội ngũ bao gồm những người lao động được sử dụng vào một công việc nào đó do bộ phận hoặc đơn vị quản lý. Đội ngũ này nằm trong NNL. Những người lao động này có cùng lý tưởng, mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.

Từ quan niệm trên, ĐNTBM là tập hợp những người giữ chức TBM có uy tín, có trình độ chuyên môn cao và thực hiện công tác quản lý ở cấp bộ môn tại trường ĐH và cao đẳng, được tổ chức thành một lực lượng cùng chung sứ mệnh là thực hiện mục tiêu GDĐH đã đề ra cho trường đó. Trong một trường, họ có thể cùng hay không cùng chuyên môn, làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau hướng tới mục tiêu chung của nhà trường. Họ là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực GDĐH [111].

1.2.2. Khái niệm trường đại học định hướng nghiên cứu

Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập về khái niệm trường ĐHNC ở trong và ngoài nước như:

Trương Quang Học cho rằng: “Một trường ĐH hiện đại, chất lượng cao phải là nơi giao thoa của ba chức năng: đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội. Trong đó, NCKH

có tác động quyết định tới chất lượng của hai chức năng kia và tới chất lượng chung của nhà trường. Nếu trường ĐH không có NCKH thì chỉ nên xem là trường phổ thông cấp ba rưỡi” [59].

Bên cạnh việc đặt trọng tâm vào hoạt động NCKH, Phạm Thị Ly phát triển khái niệm và bổ sung thêm tính chất quy tụ đội ngũ của trường ĐHNC: “Trường ĐHNC là một trường ĐH đặt trọng tâm vào hoạt động NCKH và đào tạo SĐH, là nơi quy tụ và đào tạo giới nghiên cứu chuyên nghiệp cũng như có những kết quả nghiên cứu đóng góp cho việc phát triển tri thức của nhân loại” [87].

Nguyễn Trọng Giảng tiếp cận định nghĩa trường ĐHNC trên cơ sở đưa ra các đặc tính quan trọng để xác định trường ĐHNC trong hệ thống các trường ĐH: chất lượng NCKH và sự đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, ĐNGV giỏi, tỷ lệ sinh viên SĐH so với sinh viên ĐH, cơ chế quản trị dân chủ [38].

Ngoài ra, còn nhiều định nghĩa khác, song định nghĩa được công bố bởi Hiệp hội các trường ĐH Hoa Kỳ, nhóm 8 trường ĐH Australia, nhóm các trường ĐHNC hàng đầu Châu Âu và nhóm 9 trường ĐH tinh hoa của Trung Quốc năm 2013 được đông đảo nhà nghiên cứu đón nhận. Do đó, bản dịch của Phạm Thị Ly đã đưa ra: “Các ĐHNC được định nghĩa bởi những cam kết nghiên cứu và xuyên suốt của họ với hoạt động NCKH; bởi sự ưu tú, bề rộng và khối lượng những kết quả nghiên cứu của họ; bởi cách thức văn hóa khoa học thẩm thấu, lan tỏa trong mọi hoạt động của họ, từ giảng dạy, nghiên cứu đến gắn kết với doanh nghiệp, Chính phủ và cộng đồng xã hội. Việc đào tạo bậc ĐH ở các ĐHNC được hưởng lợi to lớn từ những cơ hội mà nhà trường mang lại cho sinh viên trong những lớp học hay phòng thí nghiệm với các giáo sư và NCS đang làm việc ở tuyến đầu của tri thức. Đào tạo SĐH ở các ĐHNC được làm cho phong phú thêm nhờ sự gắn kết trực tiếp và mạnh mẽ của các NCS trong việc thực hiện nghiên cứu, còn chất lượng và năng suất của hoạt động nghiên cứu trong trường thì được lợi rất nhiều nhờ sự sáng tạo và năng lượng của các NCS. Các ĐHNC thường chỉ là số ít trong hệ thống GDĐH của mỗi nước, nhưng bao giờ cũng chiếm một phần đáng kể các thành quả nghiên cứu của quốc gia” [87].

Trong khuôn khổ luận án, NCS đề xuất sử dụng định nghĩa phù hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay để triển khai nghiên cứu là: Trường ĐHNC là trường ĐH thực hiện đầy đủ các chức năng đào tạo, NCKH và phục vụ xã hội. Trong đó, NCKH là cốt

lõi nhằm góp phần phát triển tri thức nhân loại, đồng thời chuyển giao kiến thức thông qua giảng dạy và gắn NCKH với thực tiễn, phục vụ nhu cầu xã hội. Mọi hoạt động của nhà trường đều hướng tới những nghiên cứu sáng tạo, có chất lượng nên quy tụ những người phù hợp tham gia ở các cấp bậc, đặc biệt là S ĐH.

Riêng ở Việt Nam, chúng ta còn tiếp cận với một thuật ngữ đặc biệt là “trường ĐHĐHNC” (cơ sở GDĐH định hướng nghiên cứu). Trong điều kiện hệ thống GDĐH của Việt Nam hiện nay, các trường ĐH (cơ sở GDĐH) chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện để trở thành trường ĐHNC bởi những hạn chế về chất lượng NCKH và sự đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, ĐNGV giỏi, tỷ lệ sinh viên SĐH so với sinh viên ĐH, cơ chế quản trị dân chủ… do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tuy nhiên, một số trường ĐH đã và đang nỗ lực để trở thành trường ĐHNC theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong quá trình đó, họ trở thành những trường ĐHĐHNC. Hay nói cách khác, ở Việt Nam hiện nay, hệ thống GDĐH mới được xác định là có trường ĐHĐHNC, chưa có trường ĐHNC một cách chính thức. Trường ĐHĐHNC cung cấp cho xã hội NNL có khả năng nghiên cứu, sáng tạo cao để phục vụ công việc ở các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, được chuyển giao các tri thức, kết quả nghiên cứu hiện đại một cách nhanh chóng để ứng dụng thực tiễn. Trong tương lai, các trường ĐHĐHNC của Việt Nam sẽ phát triển, biến đổi cả chất và lượng để trở thành trường ĐHNC.

Do đó, khái niệm trường ĐHĐHNC cũng được xây dựng dựa trên khái niệm về trường ĐHNC đã được các nhà nghiên cứu đưa ra nhưng phù hợp với thực tiễn điều kiện của Việt Nam hiện nay: “Trường ĐHĐHNC là trường ĐH đặt trọng tâm vào hoạt động NCKH và đào tạo SĐH hướng tới ứng dụng thực tiễn. Hoạt động giảng dạy hướng tới việc đào tạo giới nghiên cứu chuyên nghiệp, đồng thời các hoạt động NCKH được đẩy mạnh đóng góp cho việc phát triển tri thức của nhân loại, gắn kết với doanh nghiệp, Chính phủ và cộng đồng xã hội. Trường ĐHĐHNC từng bước phát triển và hoạt động theo mục tiêu trở thành trường ĐHNC với việc có thể đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế của trường ĐHNC”.

1.2.3. Khái niệm đội ngũ trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu

Do trường ĐHĐHNC có tính đặc thù riêng trong hoạt động nên ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC cũng được định vị với khái niệm phù hợp.

Xem tất cả 260 trang.

Ngày đăng: 21/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí