Trường ĐHNC thường “có nhiều sinh viên tài năng” [151]. Có thể nói, chất lượng đầu vào, quy trình tuyển chọn dựa trên tài năng, sự thành công của sinh viên mà trường ĐHNC tạo ra là đặc trưng cơ bản của người học trong trường ĐHNC.
- Yếu tố giảng viên, NCV: “Đội ngũ học thuật của trường ĐHNC đặc trưng bởi trình độ tiến sĩ hoặc tương đương, thường tốt nghiệp ở các trường ĐH hàng đầu trong nước hoặc nước ngoài” [123]. “Trung Quốc đã đo biến số này bằng một giới hạn hẹp hơn: số giảng viên tốt nghiệp tiến sĩ từ các trường ĐH top 100 của thế giới” [86]. Không dừng lại ở đó, một trường ĐHNC đúng nghĩa rất cần những “giáo sư đặc biệt”. Các giáo sư này thường làm việc nhóm và hiểu tầm quan trọng của hợp tác. Họ cũng thường xuyên làm việc trong môi trường quốc tế mặc dù họ được tuyển dụng bởi một nước. Tuy số lượng nhỏ nhưng họ tạo ra những sản phẩm KH&CN đặc biệt quan trọng. Ở rất nhiều nước, họ đào tạo hầu hết đội ngũ học thuật khác. Vì vậy, “những giáo sư này thực sự hiếm và cần được chăm sóc đặc biệt” [123].
Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận và nhận diện một trường ĐHNC (theo hệ thống xếp hạng, các công trình nghiên cứu). Tuy nhiên, dưới góc độ quản trị tổ chức và để vận dụng xây dựng các tiêu chuẩn của ĐNTBM, luận án đề xuất cách tiếp cận và nhận diện theo 03 yếu tố: mục tiêu, cấu trúc và con người trong trường ĐHNC.
Có thể thấy, sự khác biệt giữa trường ĐHNC so các trường ĐH khác ở chỗ NCKH được đặt ở vị trí cao; đào tạo, giảng dạy là cách thức chuyển giao công nghệ, phổ biến tri thức, nghiên cứu tới người học; đề cao tự do học thuật. Trong khi đó, các trường ĐH khác thì đặt đào tạo lên hàng đầu và thực hiện truyền thụ tri thức đã có tới người học để làm biến đổi họ theo hướng nâng cao chất lượng lao động.
* Đặc trưng của trường đại học định hướng nghiên cứu ở Việt Nam
Trường ĐHĐHNC ở Việt Nam là cơ sở GDĐH có hoạt động đào tạo, NCKH chuyên sâu về nguyên lý, lý thuyết cơ bản trong các lĩnh vực khoa học; phát triển các công nghệ nguồn; cung cấp NNL có năng lực giảng dạy, nghiên cứu cơ bản; có năng lực chủ trì nghiên cứu giải quyết các nhiệm vụ, đề tài khoa học cấp quốc gia và quốc tế [16]. Trường ĐHĐHNC ở Việt Nam đều là các trường ĐH công lập có cơ sở vật chất, ĐNGV trình độ cao, chất lượng cao; nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt động là nguồn ngân sách nhà nước. Bởi vì, trường ĐHĐHNC phải có quy mô đào tạo của các chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu trình độ ĐH,
SĐH chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng quy mô đào tạo của cơ sở GDĐH; quy mô đào tạo SĐH chiếm trên 30% tổng quy mô đào tạo của các ngành, chuyên ngành theo định hướng nghiên cứu; có ít nhất 03 chuyên ngành đào tạo từ ĐH đến tiến sĩ thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học cơ bản ứng dụng ở 03 nhóm ngành khác [16].
Về bản chất, trường ĐHĐHNC phải “có một kết quả nghiên cứu đáng kể, với chiều sâu và chiều rộng, tạo ra những kết quả nghiên cứu được quốc tế công nhận và được phổ biến rộng rãi thông qua các ấn phẩm khoa học, qua giảng dạy và gắn bó với cộng đồng” [87]. Vì vậy, trường ĐHĐHNC ở Việt Nam có nhiệm vụ là “đầu tàu, mũi nhọn xung kích” trong đào tạo SĐH, NCKH, chuyển giao công nghệ, phục vụ cộng đồng. Với cơ chế quản trị tự chủ, tự chịu trách nhiệm; thực thi quyền tự do học thuật có trách nhiệm của giảng viên, để họ không ngừng tìm kiếm, mở rộng tri thức, phát triển chuyên môn, học thuật.
- Trường ĐHĐHNC có cơ cấu hoạt động đào tạo, KH&CN như sau [16]:
+ Có đơn vị nghiên cứu phù hợp với ngành đào tạo như: Viện nghiên cứu, cơ sở NCKH cơ bản, NCKH ứng dụng, trung tâm phát triển công nghệ nguồn;
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên Cứu Về Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn Trong Trường Đại Học Định Hướng Nghiên Cứu
- Khái Niệm Bộ Môn, Trưởng Bộ Môn Và Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn
- Khái Niệm Phát Triển Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn
- Khung Năng Lực Trưởng Bộ Môn Trong Trường Đại Học Định Hướng Nghiên Cứu
- Phát Triển Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn Trong Trường Đại Học Định Hướng Nghiên Cứu
- Tổ Chức Xác Định Khung Năng Lực Trưởng Bộ Môn
Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.
+ Tỷ lệ chi cho hoạt động KH&CN chiếm ít nhất 20% tổng chi cho các hoạt động hằng năm của cơ sở GDĐH;
+ Giảng viên cơ hữu phải dành ít nhất 50% tổng thời gian làm việc định mức cho hoạt động NCKH;
+ Có ít nhất 80% giảng viên, NCV cơ hữu tham gia NCKH có bài báo, công trình công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước hằng năm;
+ Tỷ lệ giảng viên, NCV cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 30% tổng số giảng viên, NCV cơ hữu của cơ sở GDĐH; đối với các ngành, chuyên ngành đào tạo theo định hướng nghiên cứu, tỷ lệ này không thấp hơn 50%;
+ Mỗi chuyên ngành đào tạo trình độ tiến sĩ phải có ít nhất 01 giáo s ư hoặc 03 phó giáo sư là giảng viên cơ hữu;
+ Tỉ lệ sinh viên/giảng viên của các chương trình định hướng nghiên cứu không quá 15/1.
- Đặc điểm của trường ĐHĐHNC ở Việt Nam hiện nay [87]:
+ Đang phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng cho hoạt động NCKH như thư viện học liệu, CNTT và các phòng thí nghiệm.
+ Vừa đào tạo bậc ĐH, thạc sĩ vừa tập trung cao độ vào đào tạo bậc tiến sĩ.
+ Đang đẩy mạnh thu hút, tuyển dụng các giảng viên, chuyên gia có trình độ cao, kinh nghiệm NCKH và hợp tác quốc tế trong giáo dục, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
+ Đang thiếu quyền tự chủ và phải cạnh tranh không cân sức với các trường ĐH định hướng ứng dụng trong tuyển sinh đầu vào những sinh viên xuất sắc.
+ Đang nhận sự tài trợ không tương xứng của nhà nước cho các NCKH cơ bản.
+ Chưa có văn hóa nghiên cứu với tinh thần tự do học thuật, truy vấn, chất lượng, gắn bó và phục vụ cộng đồng.
+ Chưa có một hệ thống quản trị hữu hiệu, trong đó vai trò của hội đồng trường , hiệu trưởng và tập thể giảng viên chưa phát huy tối đa tinh thần cởi mở và minh bạch.
+ Sản phẩm NCKH được quốc tế công nhận và chuyển giao trong cộng đồng chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Sở dĩ Việt Nam mới đang xây dựng các trường ĐHĐHNC là bởi các lý do chủ quan và khách quan nhất định khiến những năm qua NCKH của Việt Nam vẫn còn chưa được quan tâm nhiều. Cơ sở hạ tầng cho NCKH còn hạn chế khiến các trường ĐH chưa đáp ứng được đầy đủ các điều kiện của một trường ĐHNC. Tuy nhiên, với sự phát triển của KT-XH, những yêu cầu mới về phát triển tri thức, một số trường ĐH ở Việt Nam đang xây dựng theo mô hình trường ĐHĐHNC để có một khoảng thời gian quá độ trở thành trường ĐHNC như các nước có nền học thuật cao trên thế giới.
1.3.2. Đội ngũ trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu
1.3.2.1. Vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu
Bộ môn trong trường ĐHĐHNC là đơn vị chuyên môn về đào tạo, nhấn mạnh NCKH và phát triển công nghệ, chịu trách nhiệm về học thuật và hoạt động khoa học. TBM có vai trò, nhiệm vụ to lớn và đặc biệt quan trọng trong đảm bảo chất lượng GDĐH, thúc đẩy NCKH, trực tiếp tạo ra hiệu quả giáo dục cho nhà trường, cụ thể:
Thứ nhất, trưởng bộ môn là giảng viên.
Có thể khẳng định trước khi trở thành nhà quản lý bộ môn, TBM thường là giảng viên. Ở bất kỳ trường ĐH nào, chức năng đào tạo luôn rất quan trọng đối với các bộ môn. Chỉ những giảng viên có năng lực, có chuyên môn phù hợp với chuyên ngành,
học phần đào tạo, có kinh nghiệm giảng dạy, chia sẻ kiến thức sâu sắc cho người học mới được tín nhiệm vào cương vị đứng đầu một đơn vị đào tạo quan trọng như bộ môn trong trường ĐH.
Vai trò là giảng viên thể hiện ở chỗ TBM tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo, kể cả việc đứng lớp trực tiếp một số giờ nhất định nhằm duy trì các quan hệ học thuật trong bộ môn. Vai trò là nhà sư phạm của TBM thúc đẩy sự phát triển chuyên môn của bộ môn biểu hiện ở chỗ: TBM là người cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho ĐNGV tham gia nhiều hơn các hoạt động học thuật; khuyến khích sự tiến bộ. Đề xuất với khoa việc đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình để kịp thời đáp ứng nhu cầu của người học nói riêng và các đối tác nói chung. Để quản lý tốt hoạt động chuyên môn, TBM cần nắm bắt các đặc điểm của hoạt động GD&ĐT. TBM phải chịu trách nhiệm về nội dung, chất lượng, tiến độ giảng dạy của những học phần được giao trong chương trình đào tạo, kế hoạch giảng dạy chung của trường, khoa. Ngoài ra, TBM còn phải hoàn thiện các nội dung học phần, nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy… Nếu không phải là một giảng viên có kinh nghiệm trên lớp và hiểu biết rõ về các học phần đào tạo thì TBM rất khó để thực hiện tốt những nhiệm vụ đó.
Thứ hai, trưởng bộ môn là nhà nghiên cứu khoa học.
Vai trò là nhà NCKH thể hiện ở chỗ TBM tích cực tham gia vào hoạt động NCKH, tổ chức và thúc đẩy thường xuyên các hoạt động NCKH trong bộ môn. TBM cần nhận thức NCKH là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt ở trường ĐHĐHNC. Hoạt động giảng dạy của trường không thể tách rời nhiệm vụ NCKH và triển khai các hoạt động chuyển giao KH&CN cho cộng đồng, xã hội. Việc bộ môn có chủ động triển khai các hoạt động học thuật hay không một mặt phụ thuộc vào TBM, nhưng với tư cách là một bộ phận của khoa, bộ môn cần có sự chỉ đạo thống nhất của trưởng khoa. Do đó, TBM phải được trưởng khoa hỗ trợ kế hoạch hoạt động chuyên môn và kiểm tra giám sát để kịp thời điều chỉnh khi cần thiết. Công việc tự bồi dưỡng và NCKH là nhiệm vụ của mỗi giảng viên và cũng là nhiệm vụ mà TBM phải đảm bảo. Có như vậy, TBM mới trở thành “đầu tàu”, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, quản lý hoạt động chuyên môn. Hiện nay, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong GDĐH là một nhiệm vụ trung tâm,
các trường ĐH trở thành các cơ sở dịch vụ đào tạo NNL không chỉ cung cấp cho thị trường lao động trong nước mà còn cả quốc tế. Vì thế, yêu cầu về chất lượng đào tạo
cũng đang được nâng lên tầm cao hơn ở hầu hết các trường ĐH. Với đặc thù riêng, trường ĐHĐHNC không chỉ cung cấp dịch vụ đào tạo mà còn phải tạo ra những sản phẩm NCKH mang tầm quốc tế. Vì vậy, vai trò của TBM cũng thể hiện ở việc:
- Tham mưu cho khoa, trường tạo cơ chế, điều kiện thuận lợi để liên kết với các nhà đầu tư, cơ sở GDĐH có uy tín trên thế giới; khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào hoạt động đào tạo, NCKH và chuyển giao công nghệ liên quan đến chuyên môn của bộ môn.
- Tổ chức những cuộc giao lưu, hội thảo chuyên môn, NCKH mang tính quốc tế trong phạm vi của bộ môn.
Thứ ba, trưởng bộ môn là nhà quản lý chuyên môn.
Trưởng bộ môn tuy không phải là người quản lý hành chính trong nhà trường nhưng lại là nhà quản lý chuyên môn cao nhất, có vai trò dẫn dắt các cá nhân trong bộ môn cùng nhau làm việc để hoàn thành mục tiêu chung. Trong quá trình quản lý chuyên môn, TBM luôn phải xây dựng kế hoạch chiến lược dài hạn cũng như ngắn hạn để định hướng toàn bộ hoạt động của bộ môn trong một giai đoạn nhất định. TBM có vai trò huy động và sử dụng các nguồn lực cho việc thực hiện mục tiêu cũng như kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện mục tiêu của bộ môn, của từng cá nhân trong bộ môn. Vai trò quản lý chuyên môn của TBM không hề nhỏ, thể hiện ở những điểm sau:
* Quản lý hoạt động đào tạo ở bộ môn
Vai trò tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo của TBM thể hiện ở việc chỉ đạo bộ môn xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, tổ chức và kiểm tra công tác đào tạo thuộc bộ môn mình quản lý.
Chương trình đào tạo là xương sống và là điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo. Vì vậy, chương trình đào tạo không những đảm bảo được mục tiêu đào tạo của trường mà còn phải phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH. Nói cách khác, chương trình đào tạo phải vừa có tính khoa học, lý luận vừa có tính thực tiễn đương thời. Bối cảnh thay đổi, chương trình đào tạo cũng phải được thay đổi theo. Do đó, TBM có vai trò chỉ đạo hoạt động phát triển chương trình đào tạo của bộ môn như:
- Tham mưu cho khoa, trường cơ cấu lại khung chương trình, bảo đảm sự liên thông giữa các cấp học, giải quyết tốt mối quan hệ về khối lượng kiến thức và thời lượng học tập giữa các học phần.
- Điều chỉnh cấu trúc nội dung giảng dạy trong chương trình hiện hành và xây dựng kế hoạch tổ chức dạy học ở tất cả các học phần mà bộ môn đảm nhiệm.
- Thực hiện các công đoạn trong quy trình phát triển chương trình đào tạo theo định hướng nghiên cứu, gắn chặt NCKH, phát triển công nghệ và nghề nghiệp trong xã hội, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tăng cường tính chủ động và độc lập của người học, đặc biệt là trong NCKH.
- Chỉ đạo đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học, đảm bảo bám sát mục tiêu học tập đã xây dựng trong chương trình mỗi học phần và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Ngoài ra, TBM còn có vai trò trong việc tổ chức quá trình đào tạo như:
- Phân công chuyên môn đảm bảo khoa học và điều hoà lao động.
- Chỉ đạo bộ môn tiến hành biên soạn và nghiệm thu giáo trình, đề thi theo sát chương trình đào tạo được xây dựng.
- Nâng cao hiệu quả sinh hoạt chuyên môn, học thuật của bộ môn.
* Quản lý hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ của bộ môn
Tổ chức và quản lý hoạt động NCKH là vai trò lớn nhất, đặc trưng của ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC. Hoạt động này gồm:
- Tổ chức và quản lý hoạt động NCKH, chỉ đạo giảng viên hướng dẫn, tổ chức cho người học cùng tham gia các đề tài khoa học, chuyển giao công nghệ.
- Tham mưu cho khoa, trường xây dựng cơ chế đặt hàng, mức kinh phí NCKH và chuyển giao công nghệ cho bộ môn.
- Xác định nội dung NCKH và chuyển giao công nghệ của giảng viên trong bộ môn.
- Xây dựng quy chế quản lý hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ của bộ môn.
- Tổ chức đánh giá, xếp loại hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ của giảng viên trong bộ môn.
- Rà soát và chỉ đạo đổi mới công tác quản lý hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ của bộ môn.
Nếu như ở trường ĐH thông thường, tỷ lệ nhiệm vụ quản lý và tổ chức công tác của TBM đối với hoạt động giảng dạy - NCKH - quản lý ĐNGV lần lượt là 5 - 3
- 2, thì ở trường ĐHĐHNC có sự khác biệt, tương ứng là 3 - 5 - 2. Nói cách khác, nhiệm vụ tổ chức và quản lý hoạt động NCKH được đặt lên hàng đầu và hoạt động NCKH của bộ môn cũng là hoạt động chuyên môn chính. Nhờ có NCKH, giảng viên trong bộ môn có điều kiện nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực chuyên môn và từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
* Quản lý công tác phát triển ĐNGV của bộ môn
Công tác quy hoạch phát triển ĐNGV giữ vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho bộ môn có thể xây dựng được ĐNGV đủ về số lượng, có chất lượng cao, đồng bộ về cơ cấu. Ở đây, vai trò của TBM cũng thể hiện rất rõ ràng như:
- Tham mưu cho khoa, trường xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV của bộ môn căn cứ vào mục tiêu phát triển của ngành, của trường.
- Tham gia vào việc tuyển chọn giảng viên theo mục tiêu đã đặt ra.
- Thực hiện ĐT-BD, nâng cao trình độ ĐNGV.
- Quản lý các hoạt động chuyên môn của giảng viên theo đúng yêu cầu mà trường đặt ra.
- Tham mưu cho khoa, trường xây dựng môi trường và tạo động lực làm việc cho giảng viên.
Thứ tư, trưởng bộ môn là nhà lãnh đạo.
Trưởng bộ môn là người đứng đầu, người đại diện cho bộ môn cũng như chịu trách nhiệm về các hoạt động của bộ môn. Vì vậy, TBM giữ vai trò nhà lãnh đạo với tư cách là người định hướng cho ĐNGV trong bộ môn hoạt động giảng dạy và NCKH, quyết định các hoạt động của bộ môn để đạt được mục tiêu chung của trường và hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Xuất phát từ sứ mệnh của bộ môn, thì nhiệm vụ của TBM thể hiện qua hoạt động thực hiện sứ mệnh, phát triển bền vững bộ môn mà mình phụ trách. Trong thực tế, nhiệm vụ mà TBM phải thực hiện rất đa dạng. Trước hết, TBM là người chịu trách nhiệm toàn diện về các hoạt động của bộ môn, từ công tác chính trị tư tưởng, đến việc đào tạo, NCKH, phát triển ĐNGV, quản lý sinh viên, hợp tác trong nước và quốc tế thuộc phạm vi được phân công, phối hợp với các tổ chức đoàn thể quan tâm đến đời sống của cán bộ, giảng viên trong bộ môn… và định kỳ báo cáo kết quả thực hiện với các cấp có thẩm quyền. TBM là người chịu trách nhiệm chung, đồng thời là người
chịu trách nhiệm trước trưởng khoa và hiệu trưởng về toàn bộ hoạt động của bộ môn, đặc biệt là trong các hoạt động chuyên môn.
Trưởng bộ môn là người đứng đầu một đơn vị đào tạo, NCKH trong khoa, nên vai trò của họ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bộ môn, khoa nói riêng và nhà trường nói chung. Khi thực hiện tốt vai trò quản lý, họ sẽ thúc đẩy khoa, bộ môn phát triển. Là người lãnh đạo, TBM phải xác định được lịch trình để đạt được mục tiêu đó, huy động và thúc đẩy cấp dưới thực hiện mục tiêu. Làm tốt vai trò lãnh đạo, TBM tạo điều kiện, môi trường để giảm thiểu các xung đột có thể xảy ra trong bộ môn thông qua việc tạo lập môi trường niềm tin cho tập thể cán bộ, giảng viên của bộ môn.
Như vậy, TBM được gắn trên vai nhiều vai trò khác nhau. Những vai trò ấy có thể được chia thành hai nhóm chính: vai trò chấp hành (với tư cách là người quản lý cấp dưới) và vai trò điều hành (với tư cách là người quản lý chuyên môn). Họ luôn phải là người song hành hai vai trò này. Tuy nhiên, họ cũng không thể coi trọng hay xem nhẹ giữa hai vai trò mà phải có sự phối kết hợp một cách mềm dẻo, linh hoạt, phải tạo được một thế cân bằng hài hòa. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản về vai trò quản lý của vị trí TBM trong trường ĐH. Chính từ sự đặc thù của vị trí quản lý dẫn đến vai trò của TBM cũng đòi hỏi một người giữ vị trí quản lý này phải đáp ứng đầy đủ các kỹ năng với mức độ chuyên nghiệp và khác biệt. TBM ngoài việc phải là một nhà sư phạm có năng lực (cả về chuyên môn và nghiệp vụ) còn phải là một nhà quản lý giỏi, là người có khả năng phát triển các mối quan hệ và liên kết, phối hợp tốt.
1.3.2.2. Yêu cầu đối với trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu
Từ đặc trưng của trường ĐHĐHNC ở Việt Nam cũng như vai trò, nhiệm vụ của TBM trong trường ĐHĐHNC, để đảm bảo cho ĐNTBM hoàn thành tốt nhiệm vụ thì yêu cầu đối với TBM được xác định rõ ràng như sau:
Thứ nhất, có trình độ chuyên môn cao.
Là một người dẫn dắt, đi đầu bộ môn chủ yếu trong hoạt động khoa học, TBM phải là người có trình độ chuyên môn cao. Nhất thiết, họ phải có chuyên môn cao hơn các thành viên khác trong bộ môn để tạo uy tín cũng như có thể hướng dẫn, định hướng cho các thành viên trong hoạt động chuyên môn. Như vậy, TBM phải là người có học thức cao, người có khả năng NCKH được minh chứng bằng nhiều công trình có giá trị. Bên cạnh đó, TBM cũng phải là người am hiểu sâu về ngành và chuyên