So Sánh Sự Khác Biệt Giữa Doanh Nghiệp Kh&cn Trực Thuộc Csgdđh Công Lập Và Tổ Chức Kh&cn Thuộc Csgdđh Công Lập

Thứ nhất, mô hình doanh nghiệp này khuyến khích thực hiện quá trình thương mại hóa đối với các sản phẩm bắt nguồn từ kết quả của các nghiên cứu KH&CN. Trên thực tế, các kết quả nghiên cứu thường tồn tại ở dạng mô hình và bản thử nghiệm nên thường không có đủ sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt nếu mối quan tâm của họ chỉ tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn. Số lượng các nhà đầu tư ngoài xã hội sẵn sàng đầu tư cho các lĩnh vực đầu tư công nghệ mới không có nhiều - được coi là lĩnh vực mang yếu tố rủi ro cao do tính mới của sản phẩm được tạo ra. Sự tham gia của các doanh nghiệp trực thuộc cơ sở giáo dục sẽ giúp nâng cao tỉ lệ thành công khi đưa sản phẩm vào công cuộc thương mại hóa, do tận dụng được sự hiểu biết từ cả hai phía nhà trường và doanh nghiệp đối với sản phẩm bắt nguồn từ kết quả nghiên cứu KH&CN (Hải Tùng, 2018).

Thứ hai, sự ra đời của doanh nghiệp KH&CN góp phần tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới cho thị trường, từ đó thúc đẩy sự phát triển về kinh tế - xã hội. Ngoài việc thực hiện nghĩa vụ về thuế cũng như thu hút người lao động, doanh nghiệp KH&CN nói chung còn có những đóng góp thông qua những yếu tố mới đến từ sản phẩm, công nghệ của mình, qua đó đóng góp cho sự phát triển của xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Ngoài ra, mô hình doanh nghiệp này còn đóng vai trò hình thành các mối liên kết nhằm thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp KH&CN nói chung và đối với địa phương nơi doanh nghiệp được hình thành (Hải Tùng, 2018).

Thứ ba, doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH còn đóng góp cho công cuộc tạo nên làn sóng khởi nghiệp sáng tạo trong môi trường đại học, theo đó tạo nguồn động lực hỗ trợ cho việc phát triển nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực ứng dụng với tiềm năng thương mại hóa cao, đưa khoa học đến gần hơn với thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra, mô hình doanh nghiệp trực thuộc CSGDĐH còn tạo ra một môi trường lý tưởng cho các cá nhân trong trường tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết trong hoạt động kinh doanh sản xuất thực tiễn để sau này trở thành những hạt nhân khởi nghiệp sáng tạo cho xã hội. Hơn nữa, mô hình này còn giúp CSGDĐH thu hút và giữ chân các nhà khoa học có trình độ cao, phục vụ cho mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững khi mô hình doanh

nghiệp thành công có thể mang lại thu nhập cho những người cùng tham gia công tác nghiên cứu khoa học. Sự thành công của doanh nghiệp trực thuộc cơ sở đại học là một sự đầu tư cho xã hội, qua đó thu hút nguồn lực xã hội hóa cho công cuộc phát triển trình độ cao cho các CSGDĐH với định hướng nghiên cứu rõ nét (Hải Tùng, 2018).

Theo chủ trương của Đảng tại Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” “khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo”, hơn nữa đẩy mạnh việc tạo lập các “cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thành lập doanh nghiệp đa sở hữu trong các viện nghiên cứu và trường đại học nhằm thực hiện hoạt động ứng dụng, triển khai, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công”. Thuận theo chủ trương này, Luật GDĐH đã có sửa đổi năm 2018, bổ sung thêm về các cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh được liệt kê trực thuộc cơ cấu tổ chức của đại học và trường đại học. Hơn nữa, Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 đã sử dụng khái niệm “doanh nghiệp” thay vì “cơ sở kinh doanh” so với luật cũ nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thành lập doanh nghiệp trong các CSGDĐH.

Ý nghĩa của việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với CSGDĐH công lập.

Thành lập doanh nghiệp KH&CN có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy sự phát triển mảng nghiên cứu khoa học cho các CSGDĐH công lập, nhất là các cơ sở theo định hướng nghiên cứu. Nó tạo tiền đề cho CSGDĐH công lập đầu tư, đổi mới cơ sở vật chất hiện đại, góp phần đẩy mạnh giáo dục và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, việc thành lập doanh nghiệp KH&CN cũng chính là biện pháp hiệu quả để có thể tối đa hóa việc ứng dụng và khai thác những tiềm năng và lợi ích từ các công trình nghiên cứu khoa học tạo ra bởi các cá nhân, đơn vị trong trường. Mặc dù việc nghiên cứu khoa học thường xuyên diễn ra và là một trong những mục tiêu quan trọng của các CSGDĐH định hướng nghiên cứu, nhưng trên thực tế có nhiều trường chưa tạo đủ điều kiện để phát huy được tính ứng dụng cho các công trình nghiên cứu

khoa học này, dẫn đến sự lãng phí về đầu tư và chất xám cũng như không tạo được cơ hội để đội ngũ cán bộ, giảng viên được phát huy hết tiềm năng của mình. Một số nghiên cứu có sự đầu tư của Nhà nước nhằm mang lại những phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích hay là các sản phẩm khoa học công nghệ; tuy nhiên, những sản phẩm đó mới chỉ dừng lại ở mức sản phẩm mẫu, phải đi qua các bước hoàn thiện và kiểm thử trước khi đưa ra ngoài thị trường tiêu thụ (Thùy Vân, 2021). Đây là cả một quá trình khó khăn và kéo dài mặc dù có rất nhiều sản phẩm với giá trị trí tuệ cao. Do vậy, việc thành lập doanh nghiệp KH&CN sẽ tận dụng được các kết quả công trình nghiên cứu, vốn hóa được tài sản tri thức gồm các sáng chế và giải pháp công nghệ thuộc sở hữu của trường, từ đó đóng góp cho xã hội những tiến bộ mới nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập cho nền kinh tế chung.

Hơn nữa, việc thành lập doanh nghiệp KH&CN còn góp phần cho công cuộc đổi mới GDĐH, trong bối cảnh các CSGDĐH công lập đang dần tiến tới việc tự chủ tài chính và quản trị. Đây sẽ là một bàn đẩy hiệu quả giúp cho các CSGDĐH có tiền đề đón nhận xu thế phát triển toàn cầu và thực hiện sự thay đổi kịp thời trước sự biến động của xã hội và nền kinh tế thị trường hiện nay.

Ý nghĩa của việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với đời sống xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

KH&CN là một trong những thành tố quan trọng trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội hiện nay bằng cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc tác động đến tổng cung và tổng cầu, tạo điều kiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu và đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế khu vực. KH&CN còn đóng vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ khi làm thay đổi cơ cấu sản xuất, làm xuất hiện nhiều ngành nghề lĩnh vực mới, tạo ra khả năng thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu và động lực của doanh nghiệp là lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp luôn hướng tới giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm bằng cách áp dụng các tiến bộ KH&CN nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường ngoài nước để tối đa hóa lợi nhuận, đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung. Hơn nữa, sự tiến bộ về KH&CN

còn đóng góp cho việc nâng cao đời sống con người về mọi mặt, từ sức khỏe, vật chất cho đến tinh thần; góp phần tạo điều kiện cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái tốt hơn, nâng cao chất lượng môi trường sống cho con người (Hưng, 2020). Để phát huy được những vai trò này của KH&CN cần đến sự vận hành trơn tru của các doanh nghiệp KH&CN – cầu nối hiệu quả giữa KH&CN và đời sống kinh tế xã hội.

Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp khoa học công nghệ trực thuộc cơ sở giáo dục đại học công lập tại Việt Nam - 4

Doanh nghiệp KH&CN ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, do đây là nơi trực tiếp ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu khoa học vào đời sống kinh tế xã hội nên nó đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng KH&CN chuyển giao vào hoạt động sản xuất hàng hóa. Sự phát triển của các doanh nghiệp KH&CN sẽ là bước đệm cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành KH&CN. Các doanh nghiệp KH&CN là những nhân tố thực hiện khai thác hiệu quả các nguồn lực, sản phẩm KH&CN đóng góp trực tiếp vào GDP quốc gia. Với sự ra đời của hàng loạt công nghệ mới tạo ra bởi các doanh nghiệp KH&CN như vật liệu xây dựng, công nghệ nano, công nghệ sinh học… làm gia tăng các yếu tổ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cũng như thu nhập cho nguồn lao động. Doanh nghiệp KH&CN còn đóng góp cho công cuộc nâng cao năng lực sáng tạo công nghệ của xã hội, tạo ra thị trường mới và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trên thị trường quốc tế và khu vực.

Ý nghĩa của việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với người học.

Việc thành lập doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa đối với các CSGDĐH công lập mà còn mang lại những lợi ích dành cho các sinh viên, người học đang theo học tại các CSGDĐH đó. Trên thực tế, các CSGDĐH công lập tại Việt Nam đã áp dụng rất tốt trong khâu đào tạo lý thuyết, nhưng lại chưa phát huy tối đa năng lực thực tiễn của sinh viên. Do vậy, doanh nghiệp KH&CN trực thuộc trường sẽ là cầu nối hiệu quả tạo cơ hội cho các sinh viên và người học được học hỏi không chỉ trên lý thuyết mà còn được tiếp cận với thực tiễn, liên hệ trực tiếp với môi trường làm việc mà sau này họ sẽ áp dụng những kiến thức đang học trên trường. Hơn nữa, thông qua các trải nghiệm thực tiễn qua kì thực tập tại doanh nghiệp sẽ giúp sinh viên có cái nhìn khách quan để đưa ra định hướng nghề nghiệp cho bản thân cũng như đúc rút kinh nghiệm

để sau này vận dụng linh hoạt cơ sở lý thuyết vào thực tế. Không chỉ tạo cơ hội cho sinh viên và người học trong quá trình học, các doanh nghiệp trực thuộc này còn tạo cơ hội việc làm cho họ sau khi tốt nghiệp. Đây là lợi thế dành cho cả sinh viên lẫn doanh nghiệp và CSGDĐH công lập, khi sinh viên đạt được mục tiêu có việc làm sau khi tốt nghiệp còn doanh nghiệp thì tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo bởi CSGDĐH công lập trực thuộc và bởi chính doanh nghiệp của họ.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp KH&CN trực thuộc còn là nguồn động lực khuyến khích phát triển tinh thần khởi nghiệp cho sinh viên cùng với các yếu tố về sáng tạo, độc lập và mạo hiểm. Doanh nghiệp KH&CN trực thuộc sẽ cung cấp cho sinh viên vốn kiến thức về giới kinh doanh cũng như cách tạo dựng các mối quan hệ trong ngành, nâng cao hiểu biết về vai trò của các doanh nhân trong cộng đồng, và nâng cao nhận thức của sinh viên về việc làm chủ doanh nghiệp. Hơn nữa, sinh viên còn có cơ hội được tiếp cận với những kiến thức đi sâu vào thực tiễn mà trên trường không đề cập đến, như việc thành lập doanh nghiệp mới, chuyển giao cách thức tiếp cận khởi nghiệp nhằm tăng cường năng lực kinh doanh và thái độ làm việc của doanh nghiệp và nâng cao kỹ năng quản lý công việc, phục vụ cho mục tiêu phát triển sự nghiệp sau này của sinh viên dù là làm việc trong các doanh nghiệp hay tự làm chủ chính doanh nghiệp của mình.

1.1.5. So sánh sự khác biệt giữa doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập và tổ chức KH&CN thuộc CSGDĐH công lập

Về cơ bản, doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập và tổ chức KH&CN thuộc CSGDĐH công lập có một số điểm chung, đó là đều xuất phát từ các nghiên cứu KH&CN, đều có năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN và đóng góp cho sự phát triển chung về hoạt động KH&CN cho xã hội nói chung và hoạt động của CSGDĐH nói riêng, và đểu nằm trong cơ cấu tổ chức của CSGDĐH công lập. Hơn nữa, hai đơn vị này đều được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước về hoạt động nghiên cứu KH&CN. Tuy nhiên, giữa các đơn vị này có những sự khác biệt nhất định, và có thể nói là mô hình doanh nghiệp KH&CN trực thuộc mang lại nhiều lợi ích cho CSGDĐH công lạp hơn là mô hình tổ chức KH&CN.

Thứ nhất, doanh nghiệp KH&CN có tư cách pháp nhân, còn tổ chức KH&CN không có tư cách pháp nhân, dù cùng là các đơn vị trực thuộc CSGDĐH công lập. Bộ luật dân sự (BLDS) quy định điều kiện để được công nhận là pháp nhân với các yếu tố sau: “(1) Được thành lập theo quy định của BLDS hoặc các luật khác có liên quan; (2) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 BLDS; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (4) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập” (Điều 74, BLDS 2015). Doanh nghiệp KH&CN có đầy đủ các yếu tố được liệt kê ở trên, do vậy nó là một doanh nghiệp và có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Còn đối với tổ chức KH&CN, mặc dù được thành lập theo quy định của Luật KH&CN và có cơ cấu tổ chức quy định theo BLDS, nhưng tổ chức này lại không độc lập về tài sản với CSGDĐH mà nó trực thuộc, nó không phải doanh nghiệp và cũng không nhân danh mình tham gia bất kì quan hệ pháp luật nào một cách độc lập nên tổ chức này không có tư cách pháp nhân. Với tư cách pháp nhân, doanh nghiệp KH&CN có thể dễ dàng giao dịch với các đối tác trong và ngoài nước, cũng như việc tách bạch tài sản với CSGDĐH nó trực thuộc sẽ giảm bớt sự rủi ro cho CSGDĐH cũng như các thành viên góp vốn vào doanh nghiệp.

Thứ hai, doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và tự chủ về hoạt động của mình. Từ cơ cấu tổ chức cho đến bộ máy nhân lực, cơ chế doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp KH&CN hoàn toàn tự quyết định các vấn đề này mà không cần phụ thuộc vào CSGDĐH trực thuộc hay các cơ quan Bộ ngành mà CSGDĐH trực thuộc. Hơn nữa, khả năng huy động vốn sẽ được phát huy mạnh mẽ, do doanh nghiệp có thể tiếp cận với các quỹ đầu tư trong và ngoài nước, tự do kêu gọi vốn đầu tư cho các dự án nghiên cứu khoa học từ nhiều nguồn khác nhau. Còn các tổ chức KH&CN trong các CSGDĐH công lập hiện nay được tự chủ theo chính sách đối với đơn vị sự nghiệp có thu, và cơ chế cấp phát kinh phí từ CSGDĐH trực thuộc vẫn là nguồn tài chính chủ yếu xuất phát từ việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Do hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, nên doanh nghiệp KH&CN phải có “doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”, quy định trong

Luật KH&CN. Tổ chức KH&CN không có quy định bắt buộc phải tạo ra doanh thu từ kết quả của các hoạt động nghiên cứu khoa học của mình.

1.2. Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập

1.2.1. Khái niệm về pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập

Trong các tài liệu tại Việt Nam có tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về pháp luật, tuy có sự khác biệt về câu chữ nhưng tựu chung lại vẫn là thể hiện quan niệm về pháp luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực xã hội mang những điểm khác biệt so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo đức hay phong tục tập quán. Định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất về pháp luật đó là: “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của Nhà nước” (Đại học Luật Hà Nội, 2019).

Từ định nghĩa trên, có thể hiểu rằng pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập là các quy tắc xử sự do Nhà nước thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập và quản lý điều hành các doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập theo mục đích, định hướng của Nhà nước nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. Các mối quan hệ xã hội được nhắc đến ở đây là quan hệ xã hội giữa doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; quan hệ xã hội giữa doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với các đối tượng cá nhân như các nhà khoa học, cán bộ viên chức công tác tại CSGDĐH công lập; quan hệ xã hội giữa doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với các tổ chức như doanh nghiệp và CSGDĐH công lập; và quan hệ xã hội giữa doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập đối với ngành KH&CN. Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của luận văn này, các khía cạnh được tập trung nghiên cứu là quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội đối với riêng doanh nghiệp KH&CN và đối với CSGDĐH công lập mà nó trực thuộc.

Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập là cơ sở pháp lý cho các hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN thuộc cơ cấu tổ chức của CSGDĐH công lập, với những vai trò tiêu biểu như sau:

Thứ nhất, pháp luật được Nhà nước sử dụng là phương tiện thể hiện chức năng quản lý Nhà nước với doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập. Đây là phương tiện cơ bản nhất và duy nhất có khả năng triển khai các chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập một cách đồng bộ, nhanh nhất và có hiệu quả trên quy mô toàn quốc. Hơn nữa, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước với các đối tượng doanh nghiệp nói chung tiến hành thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ, bằng cách thiết lập một hệ thống tổ chức quản lý rõ ràng, đồng bộ và quy định cụ thể cơ chế điều hành, điều phối của hệ thống tổ chức quản lý này từ Trung ương đến địa phương (Ngọc Dung, 2020).

Thứ hai, pháp luật còn là phương tiện hỗ trợ cho sự phát triển chung của doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập cũng như gián tiếp hỗ trợ hoạt động nghiên cứu KH&CN của CSGDĐH công lập nơi doanh nghiệp trực thuộc nói chung. Thông qua các hoạt động của doanh nghiệp KH&CN trực thuộc, hoạt động nghiên cứu KH&CN của các CSGDĐH công lập sẽ ngày một hoàn thiện và để các kết quả nghiên cứu không chỉ còn tồn tại trên quy mô phòng thí nghiệm. Từ đó, gián tiếp tạo nên đón bẩy thúc đẩy sự phát triển chung của CSGDĐH công lập.

1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập

Pháp luật đối với doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý với loại hình doanh nghiệp này, tạo điều kiện cho các chủ thể liên quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật. Từ khái niệm pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập được trình bày ở trên cùng với việc đưa ra các khái niệm cơ bản về loại hình doanh nghiệp này, có thể chỉ ra được những

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 23/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí