Hoàn Thiện Thể Chế, Chính Sách, Pháp Luật Liên Quan Đến Phát Triển Nông Nghiệp Công Nghệ Cao Và Xây Dựng Nông Thôn Văn Minh, Hiện Đại Nhằm Phát Huy Vai

141


vực nông nghiệp theo đề xuất của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) nhằm rút ngắn khoảng cách giữa kỹ năng và việc làm, hỗ trợ ngành nông nghiệp kết nối đào tạo với thị trường lao động và dẫn dắt người nông dân trong thời đại kỹ thuật số. Hội đồng Kỹ năng nghề trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ tập trung vào các nhiệm vụ dự báo kỹ năng, cập nhật thông tin về kỹ năng và sự thiếu hụt kỹ năng; tham vấn về kỹ thuật cho xây dựng, phát triển các bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, bộ đề thi đánh giá kỹ năng nghề quốc gia, chương trình đào tạo tại doanh nghiệp, cho tổ chức đánh giá kỹ năng nghề cũng như định hướng phát triển kỹ năng của ngành nông nghiệp.

Bên cạnh đó, cần hỗ trợ đào tạo nghề để nông dân giỏi trở thành người sản xuất chuyên môn hóa cao. Kiểm tra và cấp chứng chỉ làm nghề nông cho nông dân sản xuất giỏi. Chỉ nông dân được cấp chứng chỉ mới được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Đội ngũ nông dân này sẽ từng bước liên kết, hợp tác với nhau. Cần tổ chức các hình thức hợp tác sản xuất và liên kết giữa sản xuất với chế biến kinh doanh tạo điều kiện để nông dân tiếp tự mở rộng quy mô sản xuất, kết nối với thị trường, tiếp cận với dịch vụ hỗ trợ sản xuất, đổi mới khoa học công nghệ.

i) Đổi mới nội dung chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng thiết thực, hiệu quả gắn với thực tiễn, nhu cầu của địa phương, doanh nghiệp và xã hội. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, người lao động nông thôn không chỉ được trang bị kiến thức về nghề nghiệp mà còn cần được trang bị kiến thức về thị trường, tiến bộ khoa học kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, hội nhập quốc tế...

Đa dạng hóa các hình thức đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, hiện đại đáp ứng nhu cầu học nghề đa dạng và ngày một nâng cao của lao động nông thôn trong bối cảnh CMCN 4.0. Đồng thời gắn đào tạo với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, từng bước xây dựng giai cấp nông dân tiên tiến, hiện đại.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị dạy nghề cho các cơ sở dạy nghề ở nông thôn vùng ĐBSH nhằm đáp ứng được nhu cầu học tập của học viên. Bên cạnh đó, phát triển, đổi mới nội dung chương trình đào tạo nghề. Trong đó, tập trung xây dựng chương trình, nội dung đào tạo theo hướng mềm hóa, đa dạng hóa chương trình, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động đa dạng và tạo cơ hội học tập cho người lao động. Lược bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ khoa học công nghệ, tăng năng lực thực hành nghề nghiệp, năng lực tự học của người học.

142


Đa dạng hóa các loại hình đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống các cơ sở dạy nghề. Xây dựng chương trình dạy nghề theo phương pháp tích hợp để người học dễ dàng tiếp cận kiến thức, tăng cường kỹ năng thực hành nghề để người học có khả năng hành nghề sau khi đào tạo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.

ii) Gắn chặt việc rà soát, xác định danh mục nghề đào tạo với làm tốt công tác định hướng, tư vấn nghề để người lao động lựa chọn. Có những biện pháp tích cực giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để người lao động được vay vốn sản xuất kinh doanh và tạo việc làm sau khi học để phát huy hiệu quả dạy và học nghề. Để tạo cơ hội việc làm cho lao động nông thôn, các cơ sở dạy nghề cần tích cực liên kết với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh để tìm hiểu nhu cầu nhân sự của họ; từ đó, có định hướng về nghề nghiệp cho người lao động khi tham gia đào tạo.

iii) Chủ động bố trí kinh phí từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương cho công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Lồng ghép, huy động có hiệu quả các nguồn lực từ các chương trình, dự án để cùng với nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nghề cho người khuyết tật và lao động nữ.

Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư - 19

iv) Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn, hợp tác xã, cơ sở sản xuất trong việc đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu xã hội.

v) Tích cực ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào quá trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; góp phần nâng cao trình độ, tay nghề cho người lao động ở nông thôn. Việc áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ vào chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn sẽ tạo động lực quan trọng để người lao động tích cực tìm tòi, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Khi ý thức được vai trò của khoa học - công nghệ, người lao động nông thôn sẽ tìm cách thay đổi tập quán sản xuất, cách thức làm việc cho phù hợp.

Thứ hai, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở nông thôn vùng ĐBSH.

Nguồn nhân lực khoa học công nghệ (đội ngũ các nhà khoa học) có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trong tái cơ cấu nông nghiệp của vùng theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đội ngũ cán bộ

143


khoa học công nghệ trong nông nghiệp của vùng nhìn chung vẫn còn ít về số lượng, đặc biệt thiếu trầm trọng đội ngũ các nhà khoa học có trình độ cao; chất lượng nguồn nhận lực vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại theo hướng bền vững.

Để phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao của vùng, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

i) Thực hiện tốt công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong nông nghiệp. Cần đào tạo đủ số lượng nhân lực khoa học công nghệ cho tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ trong nông nghiệp; chú trọng đào tạo đội ngũ nhà khoa học nông nghiệp trình độ cao nhằm đáp ứng kịp thời cho phát triển nền nông nghiệp hiện đại. Kết hợp linh hoạt giữa các hình thức đào tạo cơ bản, dài ngày thông qua việc các địa phương gửi “đơn đặt hàng” đối với các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp với các khóa đào tạo ngắn ngày thông qua hoạt động tập huấn, bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ. Thực hiện xã hội hóa và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong nông nghiệp ở các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng.

ii) Xây dựng chính sách trọng dụng nhân tài trong nông nghiệp. Để thu hút được các nhà khoa học giỏi vào nông nghiệp, các địa phương vùng ĐBSH cần mạnh dạn đổi mới chính sách trọng dụng nhân tài trong nông nghiệp theo nguyên tắc của thị trường, tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: đa dạng hóa nguồn tuyển dụng cán bộ khoa học trong nông nghiệp; có chính sách đãi ngộ xứng đáng cả về vật chất và tinh thần nhằm khuyến khích, thu hút cán bộ khoa học công nghệ và những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ phát triển tài năng thực sự và hưởng lợi ích xứng đáng với công sức lao động sáng tạo của họ.

Thứ ba, nâng cao năng lực sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin của nông dân vùng ĐBSH (sử dụng smartphone, khai thác internet, sử dụng các phần mềm ứng dụng sản xuất và tiêu thụ nông sản, bán hàng online…), hình thành đội ngũ nông dân số gắn liền với quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn của vùng. Hội Nông dân các cấp vùng ĐBHS cần phối hợp với các tập đoàn, công ty viễn thông internet lớn như: tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), công ty dịch vụ viễn thông Vinaphone, công ty cổ phần viễn thông FPT…xây dựng các dự án nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho

144


cán bộ, hội viên nông dân trong vùng; nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng và chia sẻ thông tin, kiến thức, kinh nghiệm trong việc sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và đời sống của nông dân. Các dự án cần tập trung tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn; tổ chức và nhân rộng các câu lạc bộ, các cuộc thi “Nông dân với internet”, tổ chức các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm….Qua đó, nông dân được hướng dẫn, chia sẻ các kiến thức về sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet; giới thiệu những gương hội viên có mô hình sản xuất, kinh doanh, trồng trọt, chăn nuôi làm ăn hiệu quả nhằm khích lệ các thành viên tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ với nhiều hội viên khác; hướng dẫn cách khai thác, tìm hiểu thông tin giá cả thị trường, địa chỉ tin cậy về giống, vốn, vật tư; giới thiệu và quảng bá nông sản vùng…

Thứ tư, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp của nông dân vùng ĐBSH thông qua tăng cường hoạt động khuyến nông trong vùng.

Khuyến nông là hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thông tin, truyền bá kiến thức và đào tạo tay nghề cho nông dân nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới.

Cần tăng cường tập huấn cho nông dân vùng ĐBSH về kỹ thuật sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh nông nghiệp, bồi dưỡng kiến thức về chính sách, pháp luật, thị trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Cần đa dạng hóa, hiện đại hóa các phương thức bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo cho nông dân: tổ chức khóa học ngắn hạn, kết hợp lý thuyết với thực hành; tổ chức lớp học tại hiện trường; đào tạo từ xa trên truyền thanh, truyền hình, trang thông tin điện tử khuyến nông; khảo sát mô hình học tập trong và ngoài nước....Hiện nay, phương pháp tổ chức lớp học tại hiện trường (FFS: Farmer Field School) là một phương pháp tập huấn hiện đại, thiết thực, đem lại hiệu quả cao. Phương pháp này lấy người học làm trung tâm, tăng cường học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm để nông dân tự xác định phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện gia đình và thổ nhưỡng của địa phương. “Giảng đường” của các lớp FFS chính là cánh đồng, ruộng vườn của học viên nông dân. Qua đó, các học viên nông dân cùng phân tích và đưa ra những giải pháp để sản xuất mang lại hiệu quả cao nhất. Hình thức tập huấn hai chiều này giúp nông dân mạnh dạn chia sẻ, phát huy tính tích cực, chủ động, không còn rụt rè, e ngại như trong các lớp tập huấn thông thường.

Tăng cường đầu tư xây dựng và nhân rộng những mô hình trình diễn áp dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất nông nghiệp phù hợp với từng địa phương trong vùng ĐBSH, tiêu biểu như: mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; mô hình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (Vietgap); mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ; mô

145


hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm; mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái; chương trình “vườn ươm công nghệ”....

Đa dạng hóa các hình thức tư vấn và dịch vụ khuyến nông, bao gồm: tư vấn trực tiếp; tư vấn thông qua các phương tiện truyền thông; tư vấn thông qua đào tạo, tập huấn, diễn đàn, tọa đàm; tư vấn và dịch vụ thông qua thỏa thuận, hợp đồng…qua đó, giúp nông dân vùng ĐBSH giải quyết các vấn đề gặp phải trong quá trình sản xuất, xác định đúng nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của nông dân và áp dụng giải pháp cho riêng họ để đạt hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất.

Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khuyến nông, đặc biệt ở cấp cơ sở (trình độ chuyên môn kỹ thuật, phương pháp và kỹ năng chuyển giao công nghệ cho nông dân). Mỗi cán bộ khuyến nông sẽ trở thành nhà tư vấn thiết kế giỏi, và người thi công chính là nông dân.

Thứ năm, nâng cao năng lực liên kết của nông dân trong chuỗi giá trị nông sản công nghệ cao.

Đối với Hội Nông dân các cấp: cần nâng cao nhận thức của nông dân về vai trò và sự cần thiết của liên kết đối với việc tăng cường sức mạnh của hộ nông dân trong chuỗi liên kết. Nâng cao năng lực tổ chức sản xuất của hộ nông dân, bao gồm áp dụng nghiêm ngặt quy trình sản xuất, thu hoạch và chế biến để cải thiện chất lượng nông sản. Nâng cao ý thức tuân thủ hợp đồng và ý thức trách nhiệm của nông dân trong liên kết chuỗi.

Đối với các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao vùng ĐBSH: cần hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân bằng cách tăng cường đội ngũ cán bộ (cả về số lượng và trình độ) để bảo đảm tư vấn kỹ thuật và quản lý, giám sát chặt chẽ quy trình sản xuất của hộ nông dân; hỗ trợ vật tư đầu vào cho nông dân bằng cách lựa chọn và đàm phán với các nhà cung cấp (máy móc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) có uy tín để cung ứng cho hộ nông dân nhằm bảo đảm chất lượng, chủng loại và giá thành hợp lý. Doanh nghiệp có thể ứng trước tiền hàng cho nhà cung cấp và cho nông dân chậm thanh toán với mức lãi suất ưu đãi. Sự hỗ trợ này không chỉ góp phần giải quyết khó khăn của hộ nông dân mà còn đóng vai trò thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ giữa các bên tham gia.

Đối với hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao vùng ĐBSH (kinh nghiệm của Nhật Bản, Ixrael): Đẩy mạnh liên kết các hộ nông dân trong các hợp tác xã nông nghiệp. Đây là mô hình cơ bản nhất để đảm bảo quyền lợi, quyền làm chủ của nông dân. Thông qua phương thức sản xuất hợp tác xã, vị thế của nông dân trong đàm phán mua bán trên thị trường đầu vào và đầu ra được thay đổi căn bản, là tiền đề để phân phối lại giá trị gia

146


tăng của chuỗi sản xuất nông nghiệp. Tập trung nỗ lực vào hỗ trợ để xây dựng và thực thi kế hoạch đào tạo tăng cường năng lực HTX về kiến thức và kỹ năng quản lý, kinh doanh, ứng dụng công nghệ sản xuất và công nghệ thông tin theo yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại. Bên cạnh đó cần huy động các Viện trường, hệ thống khuyến nông, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp hình thành đội ngũ tư vấn đào tạo cho HTX nông nghiệp một cách chuyên nghiệp.

- Thúc đẩy phát triển các mô hình chuỗi giá trị nông sản thực phẩm an toàn thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó liên kết HTX - doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong việc sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng an toàn thực phẩm, có truy xuất nguồn gốc minh bạch thông tin ở các ngành hàng chủ lực, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), Chương trình hỗ trợ bảo hộ sở hữu trí tuệ cho nông sản, xây dựng thương hiệu nông sản… nhằm xây dựng uy tín của HTX cũng như thương hiệu nông sản thực phẩm đối với người tiêu dùng.

- Hỗ trợ cho đầu tư nghiên cứu tập trung vào phát triển công nghệ và kỹ thuật sản xuất, chế biến đồng bộ theo chuỗi giá trị, bao gồm cả công nghệ thông tin, công nghệ số để tạo đột phá trong chuỗi giá trị nông nghiệp của từng ngành hàng chủ lực và địa phương.

- Tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng nhằm tăng cường năng lực tài chính cho HTX nông nghiệp.

- Các chính sách hỗ trợ HTX cần được thực hiện theo tiếp cận từ dưới lên, dựa trên nhu cầu của các HTX, nhà nước đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn và tạo môi trường chính sách thuận lợi cho HTX dựa trên cở sở quản lý HTX áp dụng các nền tảng công nghệ thông tin, công nghệ số, thúc đẩy các mạng lưới hợp tác trao đổi kinh nghiệm giữa các HTX.

4.2.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại nhằm phát huy vai trò của nông dân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư

4.2.2.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Một là, tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp.

Trong bối cảnh CMCN 4.0, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp là nhu cầu, là xu hướng tất yếu, là giải pháp đột phá để nâng cao năng suất nông nghiệp, giảm chi phí đầu vào thông qua tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm

147


phát triển nền nông nghiệp toàn diện, bền vững, đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, khắc phục tình trạng manh mún, tạo điều kiện thu hút đầu tư, ứng dụng cơ giới hóa và công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp” [47, tr.153].

Hiện nay, ở vùng ĐBSH, quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp diễn ra với tốc độ chậm và hiệu quả thấp. Để tháo gỡ những bất cập trong quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp của vùng ĐBSH nói riêng, cả nước nói chung, cần tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu bổ sung, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật về đất đai cần giải quyết hài hòa giữa mục tiêu tích tụ, tập trung đất nông nghiệp với bảo đảm đất sản xuất cho người nông dân. Hiện nay, tỷ lệ lao động nông nghiệp vùng ĐBSH còn lớn; quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ còn chậm. Do đó, việc ưu tiên hàng đầu là phải bảo đảm cho nông dân có đất sản xuất, để giải quyết việc làm và ổn định đời sống cho họ. Đất đai cần được tập trung cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sản xuất nông nghiệp thực sự bằng các hình thức liên kết sản xuất, chuyển nhượng, góp vốn, cho thuê quyền sử dụng đất, đồng thời bảo đảm quyền sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân, tránh lợi dụng tích tụ ruộng đất để đầu cơ, không sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, bỏ hoang, gây lãng phí tài nguyên đất.

Do đó, Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định quy định về tập trung, tích tụ đất nông nghiệp nhằm thúc đẩy tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Nghị định cần quy định cụ thể trách nhiệm của nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất khi thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, Nghị định cần cập nhật và quy định chi tiết trình tự thực hiện các phương thức tập trung, tích tụ đất nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay, bao gồm: dồn điền, đổi thửa; thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp; liên kết, hợp tác để tổ chức sản xuất nông nghiệp; góp vốn bằng quyền sử dụng đất; chuyển giao và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp.

Nhà nước cần xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, bao gồm: i) Hỗ trợ các địa phương xây dựng quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung; ii) Hỗ trợ cung cấp thông tin đất đai và giao kết các hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất; iii) Hỗ trợ kinh phí để thực hiện tập trung, tích tụ đất nông nghiệp; iv) Bảo hiểm rủi ro trong tập trung, tích tụ đất nông

148


nghiệp; v) Hỗ trợ người sử dụng đất nông nghiệp đã chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà đầu tư để sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Đối với trường hợp nông dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp với nhà đầu tư cần bảo đảm tỷ lệ góp vốn của người sử dụng đất, không đưa đất đai vào xử lý các quyền và nghĩa vụ có liên quan khi dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh bị chấm dứt hoặc nhà đầu tư bị giải thể, phá sản theo quy định. Trường hợp nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng hoặc phá sản thì đất đai sẽ được trả lại cho người sử dụng đất theo phương án điều chỉnh, sắp xếp đất đai được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc chuyển giao quyền sử dụng đất nông nghiệp có tác động rất lớn về mặt kinh tế, xã hội, tới việc đảm bảo lợi ích của nông dân vì bản chất là nông dân sẽ không còn đất sản xuất, không có việc làm. Chính vì thế, để hỗ trợ việc thực hiện hình thức này cần phải thực hiện đồng bộ các chính sách khác như thu hút đầu tư, đào tạo nghề, giải quyết việc làm phi nông nghiệp, thực hiện đồng bộ các chính sách phát triển nông nghiệp như quy hoạch sản xuất nông nghiệp, công nghệ, thị trường đầu ra...

Pháp luật hóa công nhận quyền sử dụng đất là quyền tài sản. Trong Luật đất đai hiện hành chưa công nhận quyền sử dụng đất là quyền tài sản, chưa đưa giá trị quyền sử dụng đất vào danh mục tài sản. Vì thế, cơ chế bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất rất mong manh, cơ chế thu hồi đất sẽ dễ bị lợi dụng dẫn đến tình trạng tham nhũng và tiêu cực. Điều này làm cho người dân không yên tâm để chuyển nhượng quyền sử dụng đất vì sợ dễ bị tước đoạt, bị thiệt hại, từ đó kéo theo phía cung của thị trường quyền sử dụng đất bị hạn chế.

Hai là, chính sách tăng cường hỗ trợ nông dân về vốn phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản đối với các công trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao như nhà kính, nhà lưới, nhà màng… để tạo điều kiện cho nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp có tài sản đảm bảo để vay vốn đầu tư được thuận lợi. Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền tệ linh hoạt, ổn định mặt bằng lãi suất, tỷ giá nhằm hỗ trợ nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho nông dân vay vốn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP, Nghị định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ, cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP của Chính phủ. Các tổ chức tín dụng vùng ĐBSH cần đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng, các dịch vụ cho vay phù hợp với từng phân khúc, đối tượng khách hàng tham gia chuỗi liên kết, sản

Xem tất cả 214 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí