đạt được các giải thưởng về KH&CN do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chủ trì, phối hợp tổ chức xét tặng giải thưởng hoặc đồng ý cho tổ chức xét tặng giải thưởng theo quy định của pháp luật về giải thưởng KH&CN; (d) Các kết quả KH&CN được cơ quan có thẩm quyền xác nhận, công nhận theo quy định của pháp luật; (đ) Công nghệ nhận chuyển giao được cơ quan có thẩm quyền xác nhận theo quy định của pháp luật”.
Tuy nhiên, quy định về tỉ lệ doanh thu cũng như xác định và đánh giá khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả KH&CN sẽ tạo nên rào cản trong việc cấp Giấy chứng nhận cho các doanh nghiệp, do hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để đánh giá và xác định. Các điều kiện này đều rất khó để định lượng do còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, do vậy cần có những biện pháp định lượng cụ thể quy định trong các văn bản hướng dẫn luật nhằm thống nhất cách tính toán và xác định các yếu tố này. Hơn nữa, mặc dù yêu cầu về tỉ lệ doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu KH&CN đã giảm bớt so với trước đây, nhưng vẫn được cho là một yêu cầu không hề dễ dàng đối với các doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập, nhất là khi các doanh nghiệp này hầu hết vẫn còn đang hoạt động theo quy mô vừa và nhỏ.
Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.
Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận thuộc về Sở KH&CN tại nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Trong một số trường hợp, Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN cùng Bộ KH&CN sẽ thực hiện nhiệm vụ này. Cụ thể đối với một số trường hợp như: “(a) Các kết quả KH&CN được hình thành từ nhiệm vụ KH&CN đặc biệt; có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trong phạm vi cả nước; có vai trò quan trọng nâng cao tiềm lực KH&CN quốc gia; giải quyết các vấn đề KH&CN liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, liên vùng, nhất là môi trường, sức khỏe; hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông; (b) Doanh nghiệp được thành lập từ việc chuyển đổi tổ chức KH&CN công lập mà đăng ký hoạt động KH&CN tại Bộ KH&CN; (c) Sở KH&CN chưa đủ điều kiện kỹ thuật đánh giá kết quả KH&CN và có văn bản đề nghị Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN xem xét cấp Giấy chứng
nhận; (d) Doanh nghiệp có chi nhánh, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và có văn bản đề nghị Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN cấp Giấy chứng nhận” (Khoản 2 Điều 5, Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Cơ quan thực hiện cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN sẽ có thẩm quyền cấp thay đổi nội dung, cấp lại, thu hồi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đã cấp.
2.1.1.3. Thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp trực thuộc
Hoạt động KH&CN là một trong những nhiệm vụ mà các CSGDĐH phải thực hiện, bao gồm những nhiệm vụ sau theo Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật GDĐH: “(a) Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật; (b) Ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về hoạt động khoa học công nghệ và khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trên cơ sở các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động KH&CN; tạo điều kiện và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN; (c) Thành lập hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quy định của pháp luật có liên quan và quyết định của Hội đồng trường, Hội đồng Đại học với mục đích ứng dụng, triển khai, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công; (d) Triển khai các hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật” (Điều 16, Nghị định 99/2019/NĐ-CP).
Theo quy định trên, CSGDĐH công lập có thẩm quyền trong việc tự mình đưa ra các chính sách và đề án phát triển KH&CN cũng như quyết định thành lập hoặc góp vốn thành lập doanh nghiệp phù hợp với phương hướng phát triển đã đề ra. Việc thành lập doanh nghiệp KH&CN được thông qua và có quyết định thành lập từ phía Hội đồng trường và Hội đồng Đại học. Hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nào được đưa ra về việc thành lập doanh nghiệp trong CSGDĐH công lập, nên mặc dù trên lý thuyết thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ là từ phía CSGDĐH nhưng việc này sẽ gây lúng túng cho các lãnh đạo CSGDĐH công lập, nhất là khi hoạt động của một số đơn vị còn phụ thuộc vào chỉ đạo của các Bộ ngành, cơ quan chủ quản. Hơn nữa, Nghị định 60/2021/NĐ-CP về quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm các CSGDĐH công lập, quy định
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Về Doanh Nghiệp Kh&cn Trực Thuộc Csgdđh Công Lập
- So Sánh Sự Khác Biệt Giữa Doanh Nghiệp Kh&cn Trực Thuộc Csgdđh Công Lập Và Tổ Chức Kh&cn Thuộc Csgdđh Công Lập
- Thực Trạng Pháp Luật Về Thành Lập Và Quản Lý Điều Hành Doanh Nghiệp Khoa Học Và Công Nghệ Trực Thuộc Cơ Sở Giáo Dục Đại Học Công Lập Tại
- Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp khoa học công nghệ trực thuộc cơ sở giáo dục đại học công lập tại Việt Nam - 7
- Thực Tiễn Thi Hành Pháp Luật Về Thành Lập Và Quản Lý Điều Hành Doanh Nghiệp Kh&cn Trực Thuộc Đại Học Công Lập
- Đề Xuất Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Thành Lập Và Quản Lý Điều Hành Doanh Nghiệp Khoa Học Và Công Nghệ Trực Thuộc Cơ Sở Giáo Dục Đại
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
về tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết trao quyền phê duyệt đề án liên doanh, liên kết của đơn vị sự nghiệp công lập cho Bộ trưởng, Thủ trưởng của cơ quan chủ quản sau khi được Hội đồng trường hoặc Hội đồng Đại học thông qua đề án (khoản 2 Điều 25, Nghị định 60/2021/NĐ-CP). Mặc dù có thể ngầm hiểu rằng, đề án thành lập doanh nghiệp của CSGDĐH công lập phải được cơ quan chủ quản thông qua trước khi đưa vào triển khai, tuy nhiên quy định pháp luật lại chỉ quy định cho hoạt động liên doanh, liên kết và không đề cập đến hoạt động thành lập doanh nghiệp mặc dù trong Luật GDĐH sửa đổi 2018 đã có quy định về việc cho phép các CSGDĐH thành lập doanh nghiệp trực thuộc.
2.1.2. Các quy định pháp luật về tổ chức quản lý và điều hành doanh nghiệp KH&CN trực thuộc đại học công lập
2.1.2.1. Quy định về chính sách ưu đãi hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN
Nghị định 13/2019/NĐ-CP quy định về các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp KH&CN bao gồm các ưu đãi được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp đã được công nhận là doanh nghiệp KH&CN, bao gồm các doanh nghiệp trực thuộc CSGDĐH công lập. Nội dung của chính sách ưu đãi hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN bao gồm các yếu tố: (1) Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; (2) Miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; (3) Ưu đãi tín dụng; (4) Giao tài sản là kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ KH&CN; (5) Hỗ trợ trong các hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa kết quả KH&CN; (6) Hỗ trợ, khuyến khích ứng dụng, đổi mới công nghệ. Các chính sách ưu đãi này được quy định tại Điều 12 đến Điều 17 của Nghị định 13/2019/NĐ-CP và có nội dung như sau:
Thứ nhất, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 12, Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Thu nhập được áp dụng miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là “thu nhập được hình thành từ hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN, với doanh thu của hoạt động này phải đạt tối thiểu 30% trên tổng doanh thu của doanh nghiệp”. Các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN bao gồm công nghệ sau ươm tạo, hàng hóa, dịch vụ và các hình thức khác. Những năm tài chính mà doanh nghiệp không đạt tối thiểu 30% trên tổng doanh thu sẽ không được ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định. Về tỉ lệ và thời gian
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp KH&CN được miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong vòng 09 năm tiếp theo.
Thứ hai, miễn giảm các chi phí về đất đai (Điều 13, Nghị định 13/2019/NĐ- CP). Doanh nghiệp KH&CN được “miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai”. Hơn nữa, doanh nghiệp KH&CN còn được “miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà” (khoản 4 Điều 16, Nghị định 13/2019/NĐ-CP).
Thứ ba, ưu đãi tín dụng (Điều 14, Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Doanh nghiệp KH&CN thực hiện các nhiệm vụ và ứng dụng kết quả KH&CN, hoặc có thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu KH&CN được tài trợ, vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay hay được bảo lãnh để vay vốn theo các Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển KH&CN của Bộ; các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thứ tư, được ưu tiên giao quyền sở hữu tài sản kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn Nhà nước (Điều 15, Nghị định 13/2019/NĐ-CP). Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa đại diện chủ sở hữu Nhà nước (ở đây là CSGDĐH công lập) và tổ chức chủ trì (ở đây là doanh nghiệp KH&CN) hoặc khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật KH&CN mà doanh nghiệp KH&CN được giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Hoàng Anh, 2020).
Thứ năm, ưu tiên không thu phí cho một số hạng mục chi phí. Doanh nghiệp KH&CN “được ưu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nước để thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm sản phẩm mới, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN” (khoản 2 Điều 16, Nghị định 13/2019/NĐ-CP).
Ngoài ra, doanh nghiệp KH&CN còn được hưởng một số ưu đãi khác như: (1) Được quyền sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp và các nguồn huy động hợp pháp khác nhằm thương mại hóa kết quả KH&CN (khoản 2 Điều 17, Nghị định 13/2019/NĐ-CP), được “ưu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả KH&CN, tài sản trí tuệ của Nhà nước” (khoản 3 Điều 16, Nghị định 13/2019/NĐ- CP); (2) Được phép tự đầu tư nghiên cứu và phát triển KH&CN sau khi có kết quả được chuyển giao, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn và được cơ quan quản lý Nhà nước về KH&CN công nhận thì “được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước; trường hợp kết quả có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh thì Nhà nước sẽ xem xét mua kết quả đó” (khoản 3 Điều 17, Nghị định 13/2019/NĐ-CP); (3) Được phía các cơ quan có thẩm quyền “ưu tiên hỗ trợ trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lưu hành sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN để phát triển sản phẩm mới” (khoản 4 Điều 17, Nghị định 13/2019/NĐ-CP).
Dù đã có khung pháp lý về chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp KH&CN nói chung, tuy nhiên vẫn có một số nội dung gây khó khăn cho các doanh nghiệp KH&CN cũng như cho các cơ quan quản lý Nhà nước khi thực thi các quy định này. Trước hết, nhiều nội dung chưa có văn bản hướng dẫn thực thi các quy định pháp luật như xác định mốc thời gian tính ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp; xác định diện tích để được miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước dành riêng cho các doanh nghiệp KH&CN; hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước hoặc mua kết quả nghiên cứu... Quy định về ưu tiên không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn, do có những đơn vị thực hiện theo chế độ tự chủ tài chính nên sẽ gây khó khăn trong quá trình thực thi. Quy định về giao quyền tài sản là kết quả hình thành thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn Nhà nước được áp dụng chung cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN chứ không chỉ dành riêng cho doanh nghiệp KH&CN nói chung nên không thể được coi là ưu đãi.
Hơn nữa, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước được cho là mới chỉ dừng lại ở giai đoạn tạo ra kết quả KH&CN mà chưa có sự tập trung hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường tiềm năng cho sản phẩm mới của doanh nghiệp (Bộ KH&CN, 2021). Trong quá trình đưa sản phẩm từ kết quả nghiên cứu KH&CN ra thị trường, giai đoạn thương mại hóa cũng tiềm ẩn không ít rủi ro so với giai đoạn nghiên cứu và phát triển do còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố ngoại cảnh liên quan đến sức ép thị trường cũng như các quy định pháp luật và chính sách phát triển chung của Nhà nước. Bất lợi nhất của các doanh nghiệp KH&CN lúc này là công nghệ của họ chưa được chứng minh trên thị trường, hơn nữa kế hoạch kinh doanh cũng chưa có sự rõ ràng (Văn Toàn, 2021). Nếu không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, những sản phẩm này khó lòng có thể mang lại thành công cho doanh nghiệp trong quá trình thương mại hóa.
2.1.2.2. Quy định về việc quản lý và sử dụng đất đai, tài sản và nguồn nhân lực giữa CSGDĐH công lập và doanh nghiệp KH&CN trực thuộc
Quy định về sử dụng nguồn nhân lực của CSGDĐH công lập trong doanh nghiệp trực thuộc.
CSGDĐH công lập là một đơn vị sự nghiệp công lập, do vậy nhân viên, giảng viên, cán bộ công tác tại đơn vị này là các viên chức, theo quy định của Luật Viên chức: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Luật Viên chức sửa đổi năm 2019). Nhân viên, giảng viên, cán bộ công tác tại CSGDĐH công lập được hưởng các quyền cũng như tuân thủ và thực hiện nghĩa vụ của mình theo Luật này. Tuy nhiên, quy định của Luật này cũng tạo ra một vấn đề gây khó khăn cho các trường đại học công lập liên quan đến việc bổ nhiệm nhân sự tham gia hoạt động quản lý vận hành doanh nghiệp.
Quy định của Luật Viên chức cho phép viên chức “được góp vốn nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư” (khoản 3 Điều 14, Luật Viên chức sửa đổi năm 2019). Trong Luật Phòng chống
tham nhũng cũng có quy định tương tự về những điều mà người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan không được làm, trong đó có việc “thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh”. Do vậy, các cán bộ, nhân viên, giảng viên thuộc biên chế của trường không thể tham gia vào hoạt động quản lý điều hành trong các doanh nghiệp trực thuộc do vướng quy định pháp luật, mặc dù doanh nghiệp trực thuộc này không tách rời với CSGDĐH công lập. Doanh nghiệp KH&CN trực thuộc vẫn có thể sử dụng nhân lực của trường để phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu KH&CN của mình thông qua việc ký kết các hợp đồng thuê khoán chuyên môn, hợp đồng tư vấn hoặc hợp đồng giảng dạy. Luật Viên chức không quy định cấm việc ký kết hợp đồng vụ việc với cơ quan, tổ chức, đơn vị khác hay hoạt động nghề nghiệp ngoài thời gian làm việc. Đối với các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp trực thuộc mà muốn cán bộ trường nắm giữ, các CSGDĐH công lập đã có quyết định điều động biệt phái cán bộ sang doanh nghiệp KH&CN trực thuộc công tác. Các cán bộ vẫn thuộc biên chế của CSGDĐH công lập, nhưng doanh nghiệp lại là đơn vị trả lương (Hoàng Anh, 2020). Thời gian biệt phái không quá 03 năm theo quy định của khoản 2 Điều 36 Luật Viên chức sửa đổi năm 2019.
Mặc dù không được trực tiếp tham gia công tác quản lý điều hành của doanh nghiệp trực thuộc, các cán bộ lãnh đạo, nhân viên, giảng viên công tác tại CSGDĐH công lập vẫn có thể được cử làm người đại diện cho phần vốn góp của CSGDĐH công lập tại doanh nghiệp với tư cách là người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Số lượng người đại diện tối đa được cử để tham gia vào Hội đồng thành viên (HĐTV) hoặc Hội đồng quản trị (HĐQT) của công ty là ba người, nếu CSGDĐH công lập sở hữu ít nhất 35% vốn điều lệ của công ty TNHH hoặc ít nhất 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty cổ phần theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Doanh nghiệp 2020. Theo quy định của Luật Quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, cơ quan đại diện chủ sở hữu có quyền cử, bãi nhiệm hoặc miễn nhiệm người đại diện phần vốn Nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty TNHH. Ở đây có thể hiểu, CSGDĐH công lập là cơ quan đại diện chủ sở hữu do được giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với doanh nghiệp do mình quyết định thành lập, quy định theo khoản 1 Điều
3 của Luật này. Trong Luật này cũng như Luật Viên chức không quy định về việc cấm viên chức không được nắm giữ các chức vụ trong HĐTV, HĐQT hay là giữ chức vụ Chủ tịch HĐTV hoặc HĐQT của doanh nghiệp khi được cử làm người đại diện cho phần vốn góp của đơn vị mình. Do vậy, CSGDĐH công lập hoàn toàn có thể cử cán bộ lãnh đạo tham gia HĐTV hay HĐQT và nắm giữ chức vụ Chủ tịch. Tuy nhiên, Nghị định 159/2020/NĐ-CP về quản lý người giữ chức danh, chức vụ và người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 7 về việc kiêm nhiệm chức vụ trong doanh nghiệp của người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, trong đó quy định người đại diện phần vốn Nhà nước không được phép kiêm nhiệm các chức danh, chức vụ khác trong doanh nghiệp nếu là cán bộ, công chức, viên chức. Do vậy, cán bộ lãnh đạo của CSGDĐH công lập khi đã là thành viên của HĐQT hay HĐTV công ty đều không thể kiêm nhiệm thêm các chức vụ quản lý khác trong doanh nghiệp trực thuộc đơn vị mình.
Khi thành lập doanh nghiệp trực thuộc, lãnh đạo của các CSGDĐH nói chung hay bất cứ một cơ quan tổ chức nào khác đều muốn nắm quyền kiểm soát, quản lý và điều hành đối với doanh nghiệp trực thuộc đơn vị của mình. Do vậy, việc mong muốn bổ nhiệm đề đạt các cán bộ lãnh đạo hay nhân sự chủ chốt của mình nắm giữ các vị trí quan trọng của doanh nghiệp là điều rất dễ hiểu. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Viên chức thì cán bộ của CSGDĐH không thể vừa thực hiện công tác chuyên môn của mình tại CSGDĐH và đồng thời thực hiện nhiệm vụ quản lý điều hành tại doanh nghiệp trực thuộc đơn vị công tác, và chỉ có lựa chọn luân chuyển hẳn sang công tác tại doanh nghiệp trực thuộc nếu mong muốn được làm việc tại đó. Việc này được quy định tại Nghị định 106/2015/NĐ-CP về quản lý người đại diện phần vốn Nhà nước giữ các chức danh quản lý tại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, khi được cử làm người đại diện phần vốn trong doanh nghiệp thì viên chức không được kiêm nhiệm các chức vụ khác trong doanh nghiệp; nếu muốn kiêm nhiệm vị trí trong doanh nghiệp thì phải chấm dứt hợp đồng làm việc tại đơn vị đang công tác (khoản 1 Điều 6, Nghị định 106/2015/NĐ-CP). Quy định này sẽ được áp dụng cho các cán bộ lãnh đạo của CSGDĐH công lập, do họ đã được coi là viên chức quản lý theo quy định của Luật Viên chức sửa đổi năm 2019. Đây là một bất lợi không chỉ cho các viên chức công tác tại CSGDĐH mà còn là bất lợi cho cả CSGDĐH, vì không