Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp khoa học công nghệ trực thuộc cơ sở giáo dục đại học công lập tại Việt Nam - 7

thể tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao cho cùng một lúc cả tổ chức mẹ lẫn đơn vị trực thuộc.

Quy định về quyền tự chủ đại học trong tài chính và tài sản của CSGDĐH công lập.

Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 định nghĩa quyền tự chủ của CSGDĐH trong tài chính và tài sản bao gồm “ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản” mà CSGDĐH công lập đang nắm giữ quyền sử dụng (khoản 5 Điều 32, Luật GDĐH sửa đổi năm 2018). Tài sản của CSGDĐH công lập được Luật này quy định quản lý sử dụng theo nguyên tắc sử dụng tài sản công, và CSGDĐH “được phép sử dụng tài sản công vào việc kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật nhằm mục đích phát triển giáo dục đại học, theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển, phù hợp với môi trường giáo dục” (khoản 1 Điều 67, Luật GDĐH sửa đổi năm 2018). Do vậy, việc sử dụng tài sản của các CSGDĐH công lập ngoài việc tuân thủ theo quy định của Luật GDĐH mà còn chịu sự điều chỉnh của các luật như Luật Đất đai, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công… và các văn bản dưới luật liên quan.

Về nguồn tài chính, Nghị định 60/2021/NĐ-CP quy định CSGDĐH công lập được phép quyết định sử dụng nguồn tài chính của đơn vị để chi cho các hoạt động thường xuyên, bao gồm khoản thu từ những nguồn như: hoạt động kinh doanh, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân; hoạt động hợp tác đào tạo với doanh nghiệp; hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Nguồn tài chính của CSGDĐH công lập tự chủ còn được sử dụng để đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động KH&CN theo quy định pháp luật. Như vậy, nguồn tài chính mà CSGDĐH công lập khai thác được từ doanh nghiệp KH&CN trực thuộc như việc hoạt động hợp tác đào tạo nâng cao trình độ nhân lực cho doanh nghiệp trực thuộc, hay từ hoạt động chuyển giao công nghệ mới cho doanh nghiệp nhằm phục vụ cho quá trình thương mại hóa đều được CSGDĐH công lập tiếp tục sử dụng đầu tư phát triển cho hoạt động nghiên cứu KH&CN tại đơn vị mình, từ đó sinh ra những kết quả nghiên cứu mới và lại tiếp tục quá trình chuyển giao và thương mại hóa tại doanh nghiệp trực thuộc. Việc này có lợi cho cả hai phía CSGDĐH công lập lẫn doanh

nghiệp trực thuộc, khi CSGDĐH công lập có cơ hội phát triển hoạt động KH&CN và từ đó đóng góp cho sự phát triển chung cho công cuộc giáo dục đào tạo của đơn vị mình, còn doanh nghiệp trực thuộc lại có thêm nguồn tài nguyên để khai thác sản xuất kinh doanh và sinh lời. Đây sẽ là một tiền đề vững chắc tạo điều kiện cho việc hình thành các doanh nghiệp KH&CN tương lai trong CSGDĐH công lập, đóng góp cho xã hội các ý tưởng và công nghệ đột phá cũng như đào tạo ra nguồn nhân lực giàu tiềm năng về KH&CN, thúc đẩy sự phát triển nền giáo dục nói riêng cũng như nền kinh tế xã hội nói chung.

Tuy nhiên, quy định về việc tự chủ tài chính của CSGDĐH công lập trong Nghị định 60/2021/NĐ-CP và Luật GDĐH sửa đổi năm 2018 lại có sự mâu thuẫn với Luật Đầu tư công. Cụ thể, Luật GDĐH sửa đổi cho phép các CSGDĐH công lập tự bảo đảm toàn bộ kinh phí chi thường xuyên được “quyết định sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách Nhà nước cấp để đầu tư các sự án thực hiện hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ” thông qua quyết định của Hội đồng trường, Hội đồng Đại học (khoản 2 Điều 66, Luật GDĐH sửa đổi năm 2018). Luật này còn quy định trong Điều 16 về thẩm quyền của Hội đồng trường được “quyết định chủ trương đầu tư và sử dụng tài sản có giá trị lớn thuộc thẩm quyền của trường đại học theo quy chế tổ chức và hoạt động của trường”; Điều 20 về thẩm quyền của Hiệu trưởng tổ chức thực hiện hoạt động về tài chính, tài sản quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của CSGDĐH và quyết định của Hội đồng trường, Hội đồng Đại học. Hai quy định này đã khẳng định rõ thẩm quyền của CSGDĐH công lập được tự chủ trong việc sử dụng nguồn thu hợp pháp của mình. Nhưng Luật Đầu tư công 2019 lại quy định khác hẳn trong Điều 17 và Điều 39 khi chỉ giao thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư cho các cấp cơ quan Nhà nước cao hơn, các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung cũng như các CSGDĐH công lập không có thẩm quyền tự quyết những lĩnh vực này. Quy định này đã đi trái ngược hẳn so với quy định trong Luật GDĐH và Nghị định 60/2021/NĐ-CP, gây ra sự bối rối cho các CSGDĐH công lập khi đầu tư vào hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ cho việc phát triển doanh nghiệp KH&CN trực thuộc đơn vị mình, rồi cuối cùng vẫn phải thông qua các cơ quan chủ quản xin xét duyệt cho các dự án đầu tư KH&CN của mình.

Ngoài ra, Nghị định 60/2021/NĐ-CP còn quy định về việc phân phối kết quả tài chính trong năm đối với các CSGDĐH công lập tự chủ. Sau khi đã thực hiện hạch toán đầy đủ các khoản thu, chi thường xuyên giao tự chủ, trích khấu hao tài sản, nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước khi kết thúc năm tài chính, nếu có phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên giao tự chủ thì CSGDĐH công lập phải trích lập vào các quỹ với tỉ lệ theo quy định. Theo đó, CSGDĐH công lập có thể sử dụng Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để góp vốn liên doanh, liên kết và phải thực hiện theo đúng và đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan (khoản 3 Điều 14, Nghị định 60/2021/NĐ-CP). Tuy nhiên, quy định này lại không bao gồm việc góp vốn thành lập doanh nghiệp cho các CSGDĐH công lập để phù hợp với quy định cho phép thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo Luật GDĐH. Do vậy, mặc dù Nghị định này đã mở ra con đường thuận lợi cho CSGDĐH công lập phát triển hoạt động KH&CN, nhưng lại chưa có những quy định rõ ràng cho việc sử dụng nguồn tài chính ra sao cho việc đầu tư góp vốn cho doanh nghiệp trực thuộc đơn vị mình.

Quy định về sử dụng đất đai, tài sản công của các CSGDĐH công lập cho doanh nghiệp KH&CN trực thuộc.

Doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập có thể được Nhà nước trực tiếp giao đất cho mục đích kinh doanh giống như các doanh nghiệp KH&CN khác, hoặc sử dụng vốn đất đai của chính CSGDĐH công lập mà nó trực thuộc. Trường hợp doanh nghiệp KH&CN được Nhà nước trực tiếp giao đất phục vụ cho việc kinh doanh, có hai hình thức mà doanh nghiệp có thể lựa chọn trong việc sử dụng đất: thuê đất và miễn tiền thuê đất, hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất. Loại đất được miễn giảm thuê đất bao gồm “đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất xây dựng cơ sở sản xuất thử nghiệm” (điểm đ khoản 1 Điều 19) theo quy định của Nghị định 46/2014/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Doanh nghiệp KH&CN được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của Điều 5 Thông tư 301/2016/TT-BTC. Tuy nhiên, không phải quyền nào cũng được miễn phí trước bạ, mà chỉ có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà phục vụ cho mục đích nghiên cứu

khoa học thì mới được miễn lệ phí trước bạ. Ngoài ra, doanh nghiệp KH&CN còn được “ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao” theo quy định của Điều 58 Luật KH&CN năm 2013.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Đối với CSGDĐH công lập, việc sử dụng đất đai dưới mọi hình thức đều có sự điều chỉnh của Luật Đất đai. Theo đó, các CSGDĐH công là người sử dụng đất theo Điều 5 của Luật này, nằm trong nhóm tổ chức trong nước sử dụng đất theo khoản

1. Nhà nước vẫn nắm quyền là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai mà CSGDĐH công lập đang quản lý sử dụng. Về hình thức sử dụng đất của các CSGDĐH công lập, Điều 54 và Điều 56 Luật Đất đai quy định Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với các đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ về tài chính và cho thuê thu tiền đất hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính. Như vậy, hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất sẽ được áp dụng đối với các CSGDĐH chưa tự chủ về tài chính, theo đó các CSGDĐH này sẽ không được định đoạt quyền sử dụng đất và bị hạn chế về quyền. Chỉ có CSGDĐH công lập tự chủ về tài chính, sử dụng đất dưới hình thức thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước thì mới có quyền định đoạt quyền sử dụng đất. Theo đó, CSGDĐH công lập có thể chuyển nhượng hoặc cho thuê, được quyền thế chấp hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất.

Pháp luật về thành lập và quản lý điều hành doanh nghiệp khoa học công nghệ trực thuộc cơ sở giáo dục đại học công lập tại Việt Nam - 7

Việc sử dụng tài sản trong các CSGDĐH công lập được điều chỉnh bởi các quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công tại Điều 55 đến Điều 58, và Điều 43 Nghị định 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Khi tài sản công được đưa vào sử dụng với mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết, đơn vị đó phải đảm bảo rằng việc sử dụng tài sản công “không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao”; theo đó đơn vị phải “hoàn thành các kế hoạch, nhiệm vụ, đơn đặt hàng do cơ quan, người có thẩm quyền giao, đặt hàng hoặc trúng thầu cung cấp dịch vụ công” (điểm b khoản 2 Điều 55, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và khoản 1 Điều 43, Nghị định 151/2017/NĐ-CP). Đồng thời, việc sử dụng tài sản công phải “đúng mục

đích được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm; phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị”, trong đó bao gồm “các hoạt động phụ trợ, hỗ trợ trực tiếp cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị” (điểm d khoản 2 Điều 55, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và khoản 2 Điều 43, Nghị định 151/2017/NĐ-CP). Hơn nữa, tài sản công chỉ được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết khi đang “trong thời gian không phải thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao”, với “thời gian và cường độ sử dụng tài sản phải cao hơn khi chưa thực hiện kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết”, hơn nữa phải tạo ra kết quả là “cung cấp được nhiều dịch vụ công hơn cho xã hội” (khoản 3 Điều 43, Nghị định 151/2017/NĐ- CP). Tài sản sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải được trích khấu hao theo quy định. Ngoài ra, đối tác tham gia liên doanh, liên kết với CSGDĐH công lập phải đạt đủ điều kiện về năng lực, kinh nghiệm và có khả năng đảm bảo hiệu quả cho phương án tài chính trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động liên doanh, liên kết (điểm c khoản 3 Điều 47, Nghị định 151/2017/NĐ-CP). Hai bên sẽ tự thỏa thuận với nhau thống nhất về hình thức sử dụng tài sản cho phù hợp với hoạt động liên doanh, liên kết; và việc quản lý, sử dụng tài sản công liên doanh, liên kết được thực hiện theo Hợp đồng liên doanh, liên kết. Trong trường hợp pháp nhân mới được thành lập, tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập được sử dụng để góp vốn liên doanh, liên kết sẽ do pháp nhân mới quản lý và sử dụng theo quy định của pháp luật (điểm c khoản 4 Điều 47, Nghị định 151/2017/NĐ-CP).

Ngoài nội dung quy định về tài sản công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công còn quy định các nội dung về vốn đất đai của các CSGDĐH công lập đang quản lý, sử dụng. Điều 113 Luật này quy định về việc quản lý, sử dụng, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, cụ thể tổ chức được giao quản lý phải “thống kê, kiểm kê, ghi chép, theo dõi đất đai” chặt chẽ theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 113). Giá trị quyền sử dụng đất phải được hạch toán cụ thể, trường hợp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất mà được miễn tiền thuê thì phải thực hiện “xác định giá trị quyền sử dụng đất để hạch toán vào giá trị tài sản của đơn vị” (khoản 2 Điều 113). Hơn nữa, nguồn lực tài chính từ đất đai “phải được khai thác hợp lý, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, theo cơ chế thị trường”. Các khoản thu từ khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai phải thực hiện quản lý và sử dụng theo

quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước, đất đai, phí và lệ phí và các luật khác có liên quan (khoản 3 Điều 113). Tuy nhiên, Luật này lại quy định các CSGDĐH công lập không được đem quyền sử dụng đất để thế chấp hoặc thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác, “trừ trường hợp quyền sử dụng đất được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết mà tiền thuê đất đã trả một lần cho cả thời gian thuê không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước sau khi được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận” (điểm c khoản 5 Điều 54, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017). Trong trường hợp này, các CSGDĐH công lập có thể thực hiện các biện pháp huy động nguồn lực từ vốn đất đai của đơn vị mình mà đã được đã được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

Việc sử dụng tài sản công và vốn đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải bảo đảm tất cả các yêu cầu như sau: “(a) Được cơ quan, người có thẩm quyền cho phép; (b) Không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao; (c) Không làm mất quyền sở hữu về tài sản công; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao; (d) Sử dụng tài sản đúng mục đích được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm; phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; (đ) Phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản; (e) Tính đủ khấu hao tài sản cố định, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác với Nhà nước theo quy định của pháp luật; (g) Nhà nước không cấp kinh phí bảo dưỡng đối với tài sản công chỉ được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; (h) Thực hiện theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan” (khoản 2 Điều 55, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017). Mặt khác, các CSGDĐH công lập sử dụng tài sản công, vốn đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải đảm bảo thực hiện trách nhiệm của mình trong những việc sau: “(a) Lập đề án sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết để báo cáo cơ quan, người có thẩm quyền quyết định; (b) Tổ chức thực hiện đề án đã được phê duyệt; (c) Cập nhật thông tin về việc sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công; (d) Thực hiện đầy đủ tất cả 8 yêu cầu theo quy định của Luật này” (khoản 3 Điều 55, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017).

Về cơ bản, tài sản công không thể chuyển giao cho doanh nghiệp sử dụng dù là doanh nghiệp trực thuộc của CSGDĐH công lập, do đây là tài sản “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (khoản 1 Điều 3, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017). Trên thực tế, tài sản mà các CSGDĐH công lập chuyển giao cho doanh nghiệp KH&CN trực thuộc là các tài sản vô hình – các kết quả nghiên cứu KH&CN – với mục đích chính là đưa các kết quả này vào quá trình thương mại hóa để tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ KH&CN. Do đó, các tài sản công như máy móc, thiết bị trong CSGDĐH công lập thường hay lãng phí do sử dụng với công suất thấp và lâu ngày xuống cấp, trong khi doanh nghiệp thì lại rất cần. Việc sử dụng tài sản công trong quá trình liên doanh, liên kết giữa các CSGDĐH công lập với các doanh nghiệp tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn chi tiết. Việc ban hành các tiêu chuẩn, định mức tài sản chuyên dùng của một số Bộ ngành diễn ra chậm, từ đó đã có những khó khăn nhất định trong việc thực hiện ở các đơn vị cơ sở (Đinh Hiếu, 2019). Việc định giá tài sản vô hình như vị trí địa lý hay mức độ uy tín của thương hiệu của các CSGDĐH chưa có một thang đo cố định nào. Không có quy định nào đưa ra về các tiêu chí chung để đánh giá năng lực của đối tác tham gia liên doanh, liên kết, tuy nhiên đây cũng có thể là một rào cản tiềm năng dành cho các doanh nghiệp KH&CN trực thuộc do hầu hết các doanh nghiệp này đều rất mới và đang hoạt động với quy mô nhỏ, dù có tiềm năng nhưng điều kiện hoạt động vẫn còn nhiều hạn chế.

Về vấn đề đất đai, quy định của Luật Đất đai và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công có phần chồng chéo nhau khi cả hai Luật này đều quy định về việc sử dụng đất đai của đơn vị sự nghiệp công lập. Quy định của Luật Đất đai cho phép CSGDĐH được quyền thế chấp hoặc góp vốn sử dụng đất mà không đi kèm theo điều kiện nào, trong khi đó Luật Quản lý, sử dụng tài sản công không đề cập đến việc cho phép sử dụng đất đai để góp vốn. Hơn nữa, Luật này còn quy định phải đáp ứng đủ các tiêu chí theo Điều 54 thì mới được phép sử dụng đất đai hay tài sản công để thế chấp hoặc thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác. Điều này gây nên khó khăn và lúng túng cho các CSGDĐH công lập khi muốn sử dụng vốn đất đai và tài sản công chưa được đưa vào khai thác của mình cho mục đích thành lập doanh nghiệp KH&CN trực thuộc, đặc biệt là về đất đai do không biết phải theo quy định của Luật

nào. Đây cũng là một hạn chế lớn đối với hầu hết các CSGDĐH công lập dù có doanh nghiệp trực thuộc hay không, vì vướng các quy định pháp nên không khai thác hết tiềm năng của những tài sản này gây nên lãng phí.

Sử dụng tài sản là kết quả nghiên cứu KH&CN hình thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn Nhà nước.

Các doanh nghiệp KH&CN nói chung và doanh nghiệp KH&CN trực thuộc CSGDĐH công lập nói riêng đều được hưởng chính sách ưu đãi về việc sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc có nguồn gốc vốn Nhà nước, quy định tại Nghị định 13/2019/NĐ-CP và Nghị định 70/2018/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn Nhà nước. Theo đó, doanh nghiệp KH&CN được ưu tiên giao quyền sở hữu nếu là đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN đó.

Các nguyên tắc giao tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN được quy định như sau: đối với tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN mà ngân sách Nhà nước chiếm trên 30% thì đơn vị chủ trì được giao quyền sở hữu nhưng phải hoàn trả giá trị tài sản (Điểm c khoản 1 Điều 22, Nghị định 70/2018/NĐ-CP); đối với tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN mà Nhà nước hỗ trợ từ 30% tổng số vốn trở xuống thì giao quyền sở hữu không thu hồi phần kinh phí hỗ trợ. Doanh nghiệp KH&CN chủ trì có trách nhiệm nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu như phương án đã trình đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Sau 03 năm, kể từ thời điểm quyết định công nhận và giao quyền sử dụng tài sản là kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN mà không triển khai nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu thì cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, quyết định giao tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN cho tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu. Đối với các doanh nghiệp KH&CN trong trường đại học, tỉ lệ sở hữu cần phải tính toán kỹ lưỡng để có thể đưa ra được con số phù hợp nhất. Thông thường, các trường đại học đóng góp cho doanh nghiệp trực thuộc của mình thông qua việc chuyển quyền sử dụng bằng sáng chế, bằng danh

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 23/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí