Ý Kiến Đánh Giá Của Giảng Viên Về Mức Độ Phù Hợp Của Các Biện Pháp (N=22)

- Nội dung: Phối hợp với các tổ chức đoàn thể tổ chức hoạt động thể thao gắn với kỷ niệm các ngày lễ hoặc kết hợp với các hoạt động từ thiện, bảo vệ môi trường…

- Cách thức thực hiện: Xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động thi đấu, giao lưu thể thao gắn với kỷ niệm các ngày lễ, hoạt động thăm quan, trải nghiệm, từ thiện… trong mỗi học kỳ. Các hoạt động này được tổ chức trong phạm vi lớp học, giữa các lớp, trong trường, ngoài trường… Có thể có các hoạt động theo các nhóm của lớp. Hoặc có thể phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội trong và ngoài trường để tổ chức hoạt động.

Để xác định mức độ phù hợp của các biện pháp trên với thực tiễn của công tác GDTC và thể thao cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng, đề tài tham khảo ý kiến của các giảng viên GDTC có kinh nghiệm (chuyên gia) tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên (n = 22). Kết quả được tổng hợp tại Bảng 3.10.

Bảng 3.10: Ý kiến đánh giá của giảng viên về mức độ phù hợp của các biện pháp (n=22)



TT


Biện pháp

Hoàn toàn phù hợp

Ít phù hợp

Phân vân

Không phù hợp

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


1

Đa dạng hóa phương thức giáo dục kiến thức về sức khỏe và luyện

tập thể thao cho SV


19


86.36%


3


13.64%


0


0.00%


0


0.00%


2

Thực hiện tốt công tác khen thưởng trong

hoạt động GDTC và thể thao


20


90.91%


1


4.55%


1


4.55%


0


0.00%


3

Vận dụng tốt quan

điểm phân hóa trong GDTC và thể thao


20


90.91%


1


4.55%


1


4.55%


0


0.00%


4

Tăng cường hoạt động trò chơi và thi đấu trong GDTC và thể

thao


21


95.45%


0


0.00%


1


4.55%


0


0.00%


5

Tích hợp hoạt động GDTC và thể thao với các hoạt động chính trị

- xã hội


18


81.82%


2


9.09%


2


9.09%



0.00%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Nâng cao hứng thú với giờ học giáo dục thể chất cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - Đại học Thái Nguyên - 9

Tổng hợp kết quả khảo sát ý kiến của các chuyên gia cho thấy các biện pháp mà đề tài lựa chọn, đề xuất được đa số (81.82% đến 95.45%) giảng viên đánh giá là “hoàn toàn phù hợp” với điều kiện thực tiễn nhằm nâng cao hứng thú của sinh viên với hoạt động GDTC và thể thao; 4.45% đến 13.64% trả lời “ít phù hợp”; Chỉ có số ít (4.55% đến 9.09%) còn “phân vân” và không có ai phủ nhận các biện pháp.

Như vậy, các biện pháp mà đề tài lựa chọn và đề xuất đã có đủ cơ sở để áp dụng thử nghiệm trong các giờ học GDTC cho sinh viên để kiểm nghiệm hiệu quả thực tiễn. Khi áp dụng các biện pháp này trong thực tiễn công tác GDTC và thể thao cho sinh viên, các giảng viên cũng cần linh hoạt vận dụng ở những mức độ khác nhau phù hợp với lớp học của mình.

3.3.2. Đánh giá hiệu quả biện pháp nâng cao hứng thú với giờ học Giáo dục thể chất cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật

Các biện pháp mà đề tài lựa chọn, đề xuất được triển khai thực nghiệm (TN) trong tổ chức các hoạt động dạy học trong giờ GDTC chính khóa cho sinh viên hệ cao đẳng tại học kỳ 1 NH 2019-2020. Ngoài ra còn có các hoạt động ngoại khóa kèm theo.

- Lớp TN là lớp GDTC 1: Tổng số sinh viên là 46, trong đó có 43 nam SV và 3 nữ SV).

- Lớp đối chứng (ĐC) là lớp GDTC 2. Tổng có 48 SV, trong đó có 43 nam SV và 3 nữ SV.

Để thuận lợi cho công tác chuẩn bị tổ chức các hoạt động thực nghiệm và thu thập các thông tin ban đầu thì đề tài triển khai quá trình TN như sau: 4 tuần đầu cả hai lớp vẫn học theo nội dung, cách thức theo chương trình. Thời gian còn lại của học kỳ thì lớp ĐC vẫn được tổ chức các hoạt động dạy học theo cách thức như bình thường. Lớp TN được giảng viên vận dụng các biện pháp mà đề tài lựa chọn, đề xuất trong các hoạt động dạy học trong 8 tuần tiếp theo.

Để đánh giá hiệu quả của các biện pháp, đề tài tiến hành kiểm tra so sánh kết quả của hai lớp vào đầu (trước TN) và cuối học kỳ (sau TN). Tiêu chí để kiểm tra, so sánh gồm: Mức độ hứng thú của sinh viên (nhận thức, xúc cảm, hành động), trình độ thể lực chung (theo Quyết định số 53/2008/QĐ-BGDĐT), kết quả học tập và ý kiến phản hồi của SV sau khi kết thúc học kỳ.

3.3.2.1. Kết quả khảo sát, kiểm tra đánh giá trước thực nghiệm

Các nội dung khảo sát, kiểm tra, so sánh trước TN: Mức độ hứng thú của sinh viên (nhận thức, mức độ yêu thích); Trình độ thể lực chung của sinh viên (chạy tùy sức 5 phút, chạy con thoi 4 x 10m, bật xa tại chỗ, chạy 30m xuất phát cao (XPC).

Nhận thức của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm:

Kết quả khảo sát nhận thức của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC về ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao tại thời điểm trước TN được tổng hợp tại Bảng 3.11.

Bảng 3.11: So sánh nhận thức của SV nhóm TN (n = 46) và nhóm ĐC (n = 48) trước TN


T T

Ý nghĩa, tác dụng của GDTC và TT

Thời điểm

Tác dụng cao

Bình thường

Ít tác dụng

Không có tác dụng

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


1


Phát triển thể lực, kỹ năng, kỹ xảo, hình thể

Nhóm

TN

44

95.65%

2

4.35%

0

0.00%

0

0.00%

Nhóm

ĐC

45

93.75%

3

6.25%

0

0.00%

0

0.00%


2


Phòng, chống bệnh tật, giải trí, thư giãn

Nhóm

TN

27

58.70%

11

23.91%

8

17.39%

0

0.00%

Nhóm

ĐC

29

60.42%

12

25.00%

7

14.58%

0

0.00%


3

Rèn luyện bản lĩnh, khả năng thích nghi, mở rộng quan hệ xã hội

Nhóm

TN

7

15.22%

10

21.74%

17

36.96%

12

26.09%

Nhóm

ĐC

8

16.67%

11

22.92%

16

33.33%

13

27.08%


4


Phát triển trí nhớ, tư duy, tự tin

Nhóm

TN

4

8.70%

7

15.22%

20

41.67%

15

32.61%

Nhóm

ĐC

4

8.33%

9

18.75%

21

43.75%

14

29.17%

Qua so sánh tỷ lệ cho thấy nhận thức của nhóm TN và nhóm ĐC tại thời điểm trước TN không có sự khác biệt rõ ràng và khá tương đồng kết quả đánh giá thực trạng tại mục 3.2.2. Nhận thức về ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao của đa số sinh viên còn chưa đầy đủ. Phần lớn mới nhận thức được tác dụng trực tiếp của thể thao lên cơ thể con người. Ý nghĩa về mặt xã hội còn chưa được đánh giá cao. Cụ thể là:

- Đa số SV của cả 2 nhóm (93.75% đến 95.65%) nhận thức rõ ý nghĩa, tác dụng của hoạt động GDTC và thể thao đối với sự phát triển thể lực, kỹ năng, kỹ xảo và hình thể. Nhưng chỉ có 58.70% đến 60.42% đánh giá “cao” tác dụng phòng, chống bệnh tật, giải trí, thư giãn và có 14.58% đến 17.39% trả lời “ít có tác dụng”.

- Giá trị trong rèn luyện bản lĩnh, khả năng thích nghi, mở rộng quan hệ xã hội cũng không được nhiều SV ghi nhận. Có đến 33.33% đến 36.96% đánh giá “ít tác dụng”; và 26.09% đến 27.08% đánh giá “không có tác dụng”; Chỉ có 15.22% đến 16.67% trả lời là “có tác dụng cao”.

- Đặc biệt, rất ít sinh viên của nhóm TN và nhóm ĐC nhận thức được ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao đối với việc phát triển trí nhớ, tư duy và sự tự tin. Chỉ có 8.33% đến 8.70% trả lời là có “tác dụng cao”; 41.67% đến 43.75% trả lời “ít có tác dụng” và có 29.17% đến 32.61% cho rằng “không có tác dụng”.

Mức độ yêu thích (xúc cảm) với hoạt động Giáo dục thể chất và thể thao của sinh viên trước thực nghiệm

Xúc cảm với các hoạt động GDTC và thể thao của sinh viên được đánh giá qua mức độ yêu thích các hoạt động trong giờ học GDTC, các hoạt động thể thao ngoại khóa và các chương trình truyền hình về thể thao. Theo bảng tổng hợp kết quả khảo sát trước TN (Bảng 3.12) thì tỷ lệ lựa chọn các ý kiến trả lời về mức độ yêu thích với hoạt động GDTC và thể thao của nhóm TN và nhóm ĐC là không có sự khác biệt rõ ràng. Ở cả hai nhóm, tỷ lệ sinh viên có

xúc cảm dương tính còn thấp. Nhiều sinh viên trả lời “không thích” các hoạt động GDTC và thể thao.

Bảng 3.12: So sánh mức độ yêu thích của nhóm TN (n = 46) và nhóm ĐC (n = 48) trước TN



TT


Nội dung


Mức độ

Nhóm TN

Nhóm ĐC

SL

%

SL

%


1


Các hoạt động trong giờ học Giáo dục thể chất

Rất yêu thích

4

8.70%

5

10.42%

Yêu thích

12

26.09%

13

27.08%

Không thích

30

65.22%

30

62.50%


2


Các hoạt động thể thao do khoa và nhà trường tổ chức

Rất yêu thích

5

10.87%

5

10.42%

Yêu thích

16

34.78%

17

35.42%

Không thích

25

54.35%

26

54.17%


3


Các chương trình truyền hình thể thao

Rất yêu thích

4

8.70%

4

8.33%

Yêu thích

13

28.26%

13

27.08%

Không thích

29

63.04%

29

60.42%


Ở cả 3 nội dung khảo sát (Bảng 3.12), chỉ cótừ 8.33% đến 10.87% sinh viên (cả nhóm TN và nhóm ĐC) lựa chọn mức “rất yêu thích”; 26.09% đến 35.42% lựa chọn “yêu thích”; và có từ 54.17% đến 65.22% “không thích” các giờ học GDTC, hoạt động thể thao ngoại khóa và các chương trình truyền hình thể thao.

Biểu hiện về hành động của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm

Theo kết quả khảo sát các biểu hiện về mặt hành động trước TN (Bảng 3.13) thì tỷ lệ sinh viên của cả nhóm TN và nhóm ĐC có biểu hiện mang tính tự giác, tích cực với các hoạt động trong giờ học GDTC và các hoạt động thể thao ngoại khóa còn thấp. Đa số sinh viên mới chỉ có biểu hiện dương tính với các hành động mang tính bắt buộc (chấp hành tốt nội quy, quy định của giờ học). Tỷ lệ các ý kiến trả lời khảo sát của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC khá tương đồng.

Bảng 3.13: Kết quả khảo sát về hành động của nhóm TN và nhóm ĐC trước TN



TT


Biểu hiện


Mức độ

Nhóm TN (n = 46)

Nhóm ĐC (n = 48)

SL

%

SL

%


1


Chấp hành nội quy giờ học (đúng giờ, trang phục...)

Chấp hành đầy đủ

36

78.26%

38

79.17%

Thỉnh thoảng vi phạm

10

21.74%

10

20.83%

Thường xuyên vi phạm

0

0.00%

0

0.00%


2

Nghe, quan sát giảng viên giảng dạy và thực hiện động tác mẫu.

Thường xuyên chú ý

11

23.91%

12

25.00%

Thỉnh thoảng mới chú ý

28

60.87%

29

60.42%

Chưa bao giờ chú ý

7

15.22%

7

14.58%


3


Thực hiện các hoạt động tập luyện trong giờ học

Tích cực, chủ động

6

13.04%

7

14.58%

Hoàn thành, gượng ép

25

54.35%

27

56.25%

Thực hiện 1 phần cho có

15

32.61%

14

29.17%


4


Tham gia tập luyện ngoại khóa

Thường xuyên

4

8.70%

4

8.33%

Thỉnh thoảng

24

52.17%

26

54.17%

Chưa bao giờ

18

39.13%

18

37.50%


5

Tìm hiểu kiến thức, tuyên truyền, vận động mọi người tham gia tập luyện TDTT

Thường xuyên

3

6.52%

4

8.33%

Thỉnh thoảng

12

26.09%

12

25.00%

Chưa bao giờ

31

67.39%

32

66.67%


Trước TN, chỉ có 21.74% và 20.83% sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC “thường xuyên chú ý” đến hoạt động giảng dạy và làm mẫu của giảng viên; 13.04% và 14.58% “tích cực, chủ động” đối với các hoạt động tập luyện trong giờ học; 8.70% và 8.33% “thường xuyên” tập luyện ngoại khóa; Và chỉ có 6.52% và 8.33 “thường xuyên” chủ động tìm hiểu kiến thức cũng như tuyên truyền, vận động người khác tham gia hoạt động thể thao.

Trình độ thể lực chung của sinh viên trước thực nghiệm

Do lớp TN và lớp ĐC đều có số lượng nữ sinh viên rất ít (lớp TN có 3 nữ SV, lớp ĐC có 5). Để đảm bảo độ tin cậy, đề tài chỉ so sánh các chỉ số thể lực chung nam SV nhóm TN và nhóm ĐC. Kết quả trước TN được trình bày tại Bảng 3.14.

- Kết quả so sánh từng chỉ số đánh giá trình độ thể lực chung trước TN cho thấy thành tích kiểm tra ban đầu của nhóm ĐC và nhóm TN không có sự

khác biệt rõ rệt. Các kết quả so sánh cả ở cả 4 chỉ số kiểm tra trình độ thể lực chung đều có |t tính| < t bảng (P 0.05).

Bảng 3.14: So sánh chỉ số thể lực chung trước TN của nam SV nhóm TN và nhóm ĐC


Nội dung

Thành tích trung bình ( ±δ)


|t tính|


t bảng


P

Nhóm TN (n = 43

Nhóm ĐC (n = 43)

BX tại chỗ (cm)

217.33 ± 12.55

218.14 ± 11.00

0.32

1.99

0.05

Chạy 30m XPC(s)

4.98 ± 0.38

5.05 ± 0.39

0.84

1.99

0.05

Chạy 4x10m (s)

11.81 ± 0.37

11.88 ± 0.38

0.96

1.99

0.05

Chạy 5 phút (m)

969.07 ± 53.37

952.91 ± 36.30

1.62

1.99

0.05


Để so sánh tỷ lệ xếp loại trình độ thể lực chung thì đề tài dựa vào kết quả kiểm tra để xếp loại trình độ thể lực của từng sinh viên. Tiếp đến là so sánh tỷ lệ các mức xếp loại theo tổng số lượng sinh viên cả lớp TN (n = 46) và lớp ĐC (n = 48) (không phân biệt nam, nữ).

Bảng 3.15: So sánh tỷ lệ xếp loại trình độ thể lực trước TN của nhóm TN và nhóm ĐC


Nhóm

Xếp loại

Nhóm TN (n = 46)

Nhóm ĐC (n = 48)

Kết quả hàm CHITEST

SL

%

SL

%


P = 0.74

(P > 0.05)

Không đạt

12

26.09%

14

29.17%

Đạt

24

52.17%

24

50.00%

Tốt

10

21.74%

10

20.83%

Ghi chú: Sử dụng hàm CHITEST trong excel để so sánh tỷ lệ xếp loại “không đạt” và “đạt” giữa nhóm TN và nhóm ĐC. Trong đó loại “đạt” gồm cả “tốt”.


- Tổng hợp kết quả xếp loại trình độ thể lực chung trước TN của nhóm ĐC và nhóm TN cũng cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ xếp loại trình độ thể lực chung giữa 2 nhóm là không đáng kể. Cụ thể như sau: Nhóm TN có 21.74% sinh viên đạt loại “tốt”, 52.17% sinh viên loại “đạt” và có đến 26.09% SV “không đạt”; Nhóm ĐC có 20.83% sinh viên đạt loại “tốt”, 50.00% loại “đạt” và 29.17% “không đạt”.

- Kết quả xếp loại cho thấy còn khá nhiều sinh viên của cả nhóm TN và nhóm ĐC “không đạt” trình độ thể lực chung theo quy định (26.09% đến 29.17%). Sử dụng hàm CHITEST để so sánh tỷ lệ “không đạt” của nhóm TN với nhóm ĐC cho ra kết quả P = 0.74 (nếu P > 0.05 thì không có sự khác biệt về tỷ lệ giữa 2 nhóm).

Qua so sánh kết quả kiểm tra từng chỉ số và so sánh tỷ lệ xếp loại theo quy định cho thấy trình độ thể lực chung trước TN của nhóm ĐC và nhóm TN là tương đương nhau.

Tóm lại:Các kết quả khảo sát trước thực nghiệm về nhận thức, xúc cảm và hành động cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về mức độ hứng thú của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐCvới hoạt động GDTC và thể thao. Kết quả kiểm tra, so sánh, đánh giá về trình độ thể lực chung cũng cho thấy trình độ thể lực chung của hai nhóm là tương đương nhau.

3.3.2.2. Kết quả khảo sát, kiểm tra đánh giá sau thực nghiệm

Các nội dung kiểm tra, so sánh sau TN: Mức độ hứng thú của sinh viên (nhận thức, xúc cảm và hành động); Trình độ thể lực chung và kết quả học tập môn GDTC; Khảo sát và so sánh ý kiến phản hồi của sinh viên về các giờ học GDTC.

Nhận thức của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC sau thực nghiệm:

Kết quả khảo sát nhận thức của sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC về ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao tại thời điểm trước TN được tổng hợp tại Bảng 3.16.

Kết quả khảo sát sau TN tổng hợp tại Bảng 3.16 cho thấy nhận thức của cả sinh viên nhóm TN và nhóm ĐC về ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao đều có biến đổi theo hướng tích cực. Tuy nhiên nhận thức của sinh viên nhóm TN phát triển toàn diện và đồng đều hơn rõ ràng. Tỷ lệ sinh viên nhóm TN nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tác dụng của GDTC và thể thao cao hơn nhiều so với nhóm ĐC.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí