NSNN, và như vậy, NHNN không thể độc lập bởi vì chi phí của hoạt động điều tiết, can thiệp cần được sự đồng thuận hay cho phép của Bộ Tài chính. Để có thể thực hiện kiểm soát hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II, giống như NHTW ở các quốc gia khác, NHNN Việt Nam cần có vị thế tài chính đủ để có thể tự chủ và độc lập trong thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ trực tiếp cho các NHTM và gián tiếp thông qua can thiệp vào thị trường tiền tệ. Để giải quyết vấn đề này, Luật NHNN Việt Nam cần được đề xuất sửa đổi, theo hướng sẽ cần cấp vốn chủ sở hữu với quy mô nhất định, đồng thời hoạt động thu – chi tài chính cũng cần được xác định để đảm bảo sự chủ động trong điều tiết và quản lý thị trường và hoạt động của các NHTM. Ở các quốc gia khác, NHTW cũng luôn được xác định là cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước, song trước khi là một cơ quan quản lý nhà nước, NHTW của các nước đã là một ngân hàng lớn, thậm chí đặc biệt lớn và chỉ có như vậy, NHTW mới đảm đương được “sứ mệnh” là ngân hàng của Chính phủ và là ngân hàng của các ngân hàng.
Liên quan đến triển khai áp dụng KSRR trong các hoạt động của NHTM theo Basel II cũng như các chuẩn mực và thông lệ quốc tế khác trong tương lai luôn đòi hỏi một chi phí tài chính không nhỏ và đây là một thách thức lớn đã được đề cập ở Chương 3 của Luận án. Có thể nói rằng, với vị thế tài chính của NHNN hiện nay thì rất khó có thể đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, cải thiện hệ thống dữ liệu thông tin, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát. Đặc biệt, kiểm soát theo Basel II đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM bao gồm cả nội dung về mức độ và năng lực QTRR của mỗi NHTM.
Ba là, nâng cao năng lực và trách nhiệm trong quản lý và điều hành
Để triển khai và thực hiện vai trò của một NHTW có mức độ độc lập tương đối, Chính phủ cần phải xây dựng và kiến nghị với Quốc hội phê duyệt những quy định mang tính pháp luật về trách nhiệm của NHNN một cách cụ thể đến từng đơn vị chức năng để đảm bảo gắn quyền hạn với năng lực và trách nhiệm về quản lý và thanh tra, giám sát. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý và các chuyên viên của NHNN phải được tuyển chọn và đào tạo một cách chuyên nghiệp để đảm bảo có trình độ chuyên môn và tiếp thu kinh nghiệm thực tế trong vận hành hoạt động của NHNN. Mặt khác, cần xây dựng chế độ trách nhiệm và các chế tài xử lý một cách nghiêm túc đối với việc hoàn thành trách nhiệm của mỗi cán bộ quản lý và chuyên viên của NHNN theo các mục tiêu và nhiệm vụ được giao. Hoạt động của NHNN cần phải được giải trình và chứng minh được sự phù hợp với các yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội, đúng pháp luật và có hiệu quả.
Để thực hiện công khai minh bạch mọi thông tin kinh tế tài chính phục vụ cho quản lý, điều hành và giám sát, cần có quy định mang tính pháp luật đối với NHNN trong việc thực hiện báo cáo và công khai hóa toàn bộ các mặt hoạt động và kết quả thực hiện các chỉ tiêu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Việc tăng cường tự chủ, minh bạch và công khai hóa sẽ làm rõ hơn vai trò, hiệu quả hoạt động của NHNN, làm cơ sở để các NHTM thực hiện công khai minh bạch các hoạt động kinh doanh và QTRR.
4.3.1.2. Củng cố hệ thống thông tin về kinh tế - tài chính, luật pháp hóa việc cung cấp thông tin về hoạt động ngân hàng và thị trường tài chính
Như đã đề cập trên đây, thông tin kinh tế và tài chính không chỉ là một yếu tố cần thiết mà còn vô cùng quan trọng đối với hoạt động và sự an toàn của hệ thống Ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Thông tin không chính xác hay bị "bóp méo" sẽ gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động ngân hàng và làm cho thị trường tài chính hoạt động thiếu lành mạnh, mất ổn định, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ thu thập, xử lý và cung cấp thông tin phù hợp. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất để có thể thu thập xử lý và cung cấp thông tin cần thiết cho các đối tượng tham gia vào hoạt động trên thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng.
Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê cùng phối hợp chặt chẽ hơn với NHNN và Bộ Tài chính trong việc tính toán và công bố các thông tin kinh tế, tài chính cần thiết để hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, hướng dẫn và chỉ báo thị trường các thông tin có liên quan. Song song với các quy định và yêu cầu về cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời và minh bạch, Chính phủ cũng ban hành các chế tài xử phạt đối với các tổ chức tham gia thị trường có vi phạm về cung cấp thông tin sai lệch, bất cân xứng gây ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính.
4.3.1.3. Cần có sự hỗ trợ đối với Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại triển khai Đề án áp dụng Basel II
Có thể bạn quan tâm!
- Lộ Trình Áp Dụng Chuẩn Mực Basel Ii Về Kiểm Soát Rủi Ro Đối Với Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
- Hoàn Thiện Mô Hình Tổ Chức Của Cơ Quan Thanh Tra, Giám Sát
- Xây Dựng Các Tiêu Chuẩn Về Cung Cấp Và Quản Lý Thông Tin Về Hoạt Động Của Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam
- Đối Với Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Thị Trường
- Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 23
- Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 24
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Đề nghị Chính phủ khuyến khích và có biện pháp hỗ trợ về mặt Nhà nước cho NHNN và các NHTM Việt Nam khi triển khai thực hiện Đề án áp dụng Basel II, trước mắt là hỗ trợ NHNN và các NHTM thực hiện trong giai đoạn thí điểm đến năm 2020. Đề án “Phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Trên thực tế, cả NHNN và các NHTM Việt Nam tham gia Đề án thí
điểm áp dụng Basel II đều gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và tài chính, quy trình, quy chế để đảm bảo việc triển khai hoạt động theo đúng chuẩn mực Basel II. Một mặt, Chính phủ cần hỗ trợ các NHNN xây dựng lộ trình và kế hoạch cụ thể cho từng nhóm ngân hàng theo kinh nghiệm của Mỹ và Trung Quốc trong việc phân loại thành từng nhóm theo quy mô, đặc biệt với quy mô lớn và hoạt động quốc tế cần bắt buộc thực hiện áp dụng QTRR theo Basel II.
Chính phủ cho phép tăng cường cổ phần hóa ở mức cao hơn đối với các NHTM cổ phần nhà nước, giúp các NHTM này có đủ điều kiện về năng lực tài chính cho triển khai áp dụng Basel II cũng như tạo điều kiện hỗ trợ các NHTM Việt Nam có thể hiện đại hóa công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin IT.
4.3.1.4. Hoàn thiện mô hình tổ chức đảm bảo hiệu lực và hiệu quả cho hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
Bài học kinh nghiệm từ việc áp dụng Basel II vào KSRR trong hoạt động của các NHTM ở một số nước trên thế giới cho thấy mô hình tổ chức của CQTTGSNH của NHNN Việt Nam cần phải được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả thông qua xác định rõ quyền hạn và tính độc lập, khách quan trong hoạt động. Mặc dù là một đơn vị thuộc NHNN, song CQTTGSNH cần có những cơ chế đặc thù để hạn chế tác động của Hội đồng Thống đốc và những áp lực từ các mục tiêu kinh tế
- xã hội để có thể giám sát và kiểm soát một cách khách quan tình hình rủi ro của các NHTM. Trên cơ sở đó, CQTTGSNH có trách nhiệm thực hiện minh bạch và công khai hóa kết quả thanh tra, giám sát rủi ro của các NHTM và chỉ có như vậy, hiệu lực và hiệu quả thanh tra, giám sát và KSRR mới có thể được đảm bảo.
4.3.1.5. Kiến nghị về thanh tra, giám sát
Một trong những mục đích quan trọng bậc nhất của hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM là KSRR, đảm bảo mức rủi ro của các NHTM trong giới hạn cho phép để không gây ra sự đổ vỡ ngân hàng. Yêu cầu của KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II đòi hỏi không chỉ đánh giá được mức độ rủi ro mà còn phải đánh giá chính xác năng lực QTRR của các NHTM. Do vậy, CQTTGSNH cần phải kết hợp sử dụng các chỉ tiêu định lượng và các chỉ tiêu định tính để phản ánh đúng bản chất và mức độ nghiêm trọng của các loại rủi ro trong hoạt động của các NHTM. Một khoản rủi ro tín dụng có thể được phản ánh qua tỷ lệ nợ quá hạn hay nợ khó đòi, song các tỷ lệ này chưa thể cho biết mức độ tổn thất tín dụng của NHTM đó. Điều này chỉ được giải quyết thông qua việc xác định được bản chất và mức độ rủi ro bởi CQTTGSNH. Hơn nữa,
CQTTGSNH cần phải xây dựng được khung đo lường năng lực QTRR của các NHTM theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở đó mới có thể phân loại, xếp hạng các NHTM theo năng lực QTRR, làm cơ sở cho việc kiểm soát và xác định quy mô, phạm vi hoạt động an toàn cho mỗi NHTM. Đây là một trong những điều kiện quan trọng đòi hỏi NHNN Việt Nam phải đổi mới nội dung và cơ sở thanh tra, giám sát qua đó mới đáp ứng yêu cầu KSRR theo Basel II.
4.3.1.6. Sự đầy đủ, thống nhất và khoa học của hệ thống văn bản pháp quy
Ngoài các văn bản về cơ sở pháp lý cần thiết hoạt động KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM theo Basel II còn đòi hỏi điều kiện về sự đầy đủ, thống nhất và khoa học của các quy định về quản lý, điều tiết hoạt động và đảm bảo an toàn đối với các hoạt động kinh doanh của các TCTD. Điều này là một tất yếu, bởi lẽ hoạt động thanh tra, giám sát cần phải dựa vào các văn bản quy định và pháp luật. Song, để có thể KSRR theo các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II, hệ thống văn bản quy định về hoạt động kinh doanh và đảm bảo an toàn đối với các NHTM giờ đây cần phải được chuẩn hóa từ quá trình xây dựng, ban hành và có nội dung phù hợp với chuẩn mực quốc tế nói chung và của Basel II nói riêng. Yêu cầu này xuất phát từ cả 2 giác độ: (1) hệ thống văn bản quy định tiêu chuẩn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho CQTTGSNH và đảm bảo tính khách quan, trung thực của các kết luận thanh tra và giám sát; (2) giúp các NHTM dễ dàng nhận thức, vận dụng và tuân thủ các quy định về quản lý, điều tiết và đảm bảo an toàn, đáp ứng yêu cầu về nội dung thanh tra, giám sát.
Các quy định của NHNN về hoạt động của các NHTM triển khai áp dụng Basel II cần phải phù hợp với lộ trình triển khai Basel II của các NHTM này. Ví dụ: việc ban hành các quy tắc tính toán vốn theo phương pháp chuẩn của Basel II không những phức tạp mà còn rất khó xác định các hệ số rủi ro phù hợp. Vì vậy, NHNN cần ban hành các văn bản có căn cứ khoa học và thực tế về thời hạn áp dụng hay hiệu lực để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM. Tương tự, việc thiết lập các tỷ lệ an toàn cần xác định mức độ phù hợp với mặt bằng các NHTM trong nước và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi áp dụng các tiêu chuẩn trên để khuyến khích động viên các NHTM tích cực và tự giác áp dụng Basel II.
4.3.2. Khuyến nghị đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhìn chung, để xây dựng một hệ thống QTRR có hiệu quả theo tiêu chuẩn của Basel II, các NHTM Việt Nam có rất nhiều việc cần làm trong thời gian tới, tập trung vào các nội dung sau:
Tiếp tục bám sát và tuân thủ các văn bản pháp luật, quy định của NHNN Việt Nam về việc xây dựng và tăng cường hệ thống QTRR trong ngân hàng, trong đó có một số văn bản, quy định nổi bật như Thông tư số 02/2013/TT-NHNN; Thông tư số 36/2014/TT-NHNN; Thông tư số 44/2011/TT-NHNN; Thông tư số 49/2014/TT-NHNN…
Trong chiến lược và các chính sách của từng ngân hàng liên quan tới hoạt động QTRR, cần xác định lại mục tiêu cũng như nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động QTRR trong ngân hàng, coi đây là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh từng của ngân hàng, chứ không phải là nhiệm vụ tuân thủ. Đặc biệt, đối với việc đảm bảo hệ số an toàn vốn CAR, các ngân hàng cần xác định lại mục đích là phục vụ cho công tác quản lý (tức là thu xếp vốn để bù đắp cho các tổn thất có thể xảy ra do rủi ro), chứ không chỉ phục vụ cho mục đích tuân thủ theo quy định của NHNN Việt Nam.
Cần chủ động hơn nữa trong công tác xây dựng hệ thống QTRR trong ngân hàng, trong đó cần chủ động áp dụng các quy định của NHNN liên quan tới QTRR, cũng như chủ động nghiên cứu, áp dụng các chuẩn mực/ nguyên tắc QTRR của Ủy ban Basel II như 16 nguyên tắc về quản trị RRTD; 10 nguyên tắc về QTRR lãi suất; 7 nguyên tắc về quản trị RRTN; 17 nguyên tắc của BIS về QTRR thanh khoản…
Xây dựng văn hóa QTRR trong nội bộ toàn ngân hàng, và phải đảm bảo nguyên tắc tuyên thủ các quy định về QTRR đã được phê duyệt.
Nâng cao chất lượng hoạt động đo lường rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam thông qua việc áp dụng các mô hình đo lường rủi ro tiên tiến. Từ kinh nghiệm đo lường trong quy trình QTRR của các ngân hàng trên thế giới, các ngân hàng Việt Nam có thể xem xét áp dụng các mô hình tiên tiến vào đo lường rủi ro như: mô hình XHTD nội bộ đối với RRTD; mô hình thời lượng (Duration), mô hình hệ số nhạy cảm (Factor Sensitivity – FS), mô hình giá trị có thể tổn thất VaR đối với rủi ro lãi suất; lập bảng chi tiết thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính, bảng dòng tiền đối với rủi ro thanh khoản…
Tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng công nghệ thông tin Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã khảo sát đối với cán bộ ngân hàng
(2017) về sự hiểu biết đối với Hiệp ước Basel thì có 7% là hiểu rõ Hiệp ước này, còn 70% là đã từng nghe thấy nhưng không biết nhiều, thường chỉ nắm một vài chuẩn mực đơn giản như yêu cầu vốn tự có, hệ số CAR… Do đó, các NHTM cần tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên trau dồi kiến thức và nâng cao kinh nghiệm. Ngoài ra, công nghệ ngân hàng cần được nâng cấp và không ngừng cải thiện để cập
nhật phương pháp đo lường, QTRR tiên tiến như mô hình đo lường tín dụng theo Basel II, mô hình thời lượng, mô hình VaR…
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin. Các ngân hàng hiện nay cần xây dựng hệ thống bảo mật thông tin và an toàn mạng kết hợp với việc nghiên cứu và thiết lập đường truyền dữ liệu, liên kết với mạng thông tin quốc gia để tạo thế chủ động cho ngân hàng. Các ngân hàng cần có sự kết nối, chia sẻ thông tin với nhau, trên cơ sở hỗ trợ của NHNN, để xây dựng một “kho dữ liệu” toàn diện, nhằm cung ứng nguồn thông tin chính xác cho các bộ phận chuyên môn có liên quan.
Xây dựng phương thức và lộ trình cụ thể để áp dụng Basel II trong nội bộ đối với từng ngân hàng, đảm bảo đúng lộ trình đề ra của NHNN Việt Nam, cũng như phù hợp với điều kiện, năng lực tài chính của mỗi NHTM.
4.3.2.1. Khuyến nghị về mức an toàn vốn tối thiểu
Phải thực hiện tăng trưởng vốn bền vững cho các NHTM. Theo đó, các NHTM cần chủ động thực hiện các giải pháp để tăng mức độ vốn như: 1) Xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm sử dụng vốn hợp lý như phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu; 2) Cân nhắc lựa chọn cổ đông chiến lược trong nước và ngoài nước là các NHTM đã áp dụng Basel II để cùng hợp tác, chia sẻ, học hỏi và chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ quản lý; 3) Cần có tầm nhìn chiến lược trong cân đối quyền lợi giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ để tạo uy tín và lòng tin của nhà đầu tư; 4) Nghiên cứu phương án sáp nhập, mua lại ngân hàng để có sự chuẩn bị hiệu quả khi đóng vai trò hoặc là ngân hàng mua lại, hoặc là ngân hàng được mua lại.
Các NHTM cần nghiên cứu và xây dựng mô hình, bộ phận chuyên trách về rủi ro. Khi đó, ngân hàng sẽ coi QTRR là hoạt động của ngân hàng và chủ động hơn trong việc QTRR. Một hội đồng rủi ro chung cần được xây dựng và có những hội đồng quản lý/bộ phận chuyên trách thành viên đối với từng khoản mục rủi ro khác nhau. Bên cạnh đó, phải xây dựng quy chế phối hợp QTRR hiệu quả giữa các hội đồng quản lý/bộ phận chuyên trách đó, nhằm đưa ra các quyết định quản trị đồng bộ, chính xác, hiệu quả.
4.3.2.2. Đối với hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
Trong công tác QTRRTD các NHTM cần xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, thường xuyên xem xét các khoản vay, đánh giá những thay đổi hạng mức tín dụng của khác hàng. Xác định hạn mức tín dụng cho từng ngành nghề hoặc khu vực kinh tế cụ thể, cho từng vùng miền và sản phẩm để KSRR.
Bên cạnh đó, NHTM cũng cần triển khai kịp thời việc xây dựng hệ thống XHTDNB nhằm hỗ trợ cho hoạt động QTRR tín dụng thông qua:
Tiếp tục xây dựng và đổi mới hệ thống XHTDNB của từng NHTM theo hướng toàn diện, trong cả quá trình từ thẩm định, xét duyệt, cấp tín dụng, hồ sơ tín dụng đến quy trình đánh giá, xếp hạng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; chính sách dự phòng rủi ro để quản lý quá trình phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; việc phân cấp, ủy quyền và xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân trong suốt quá trình này.
Hệ thống XHTD nội bộ được xây dựng một cách thống nhất, rõ ràng, đảm bảo ở mức tối đa khách hàng giống nhau phải được quản lý giống nhau.
Hoàn thiện mô hình tổ chức và nhân sự. Chất lượng XHTD nội bộ phụ thuộc lớn vào mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính NHTM. Do đó, NHTM cần hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng phân tách rõ trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan đến QTRR và tránh xung đột lợi ích; đảm bảo tính độc lập, khách quan của công tác XHTDNB. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu, chuẩn mực QTRRTD theo Basel II, cán bộ thực hiện XHTD phải chuyên sâu nghiệp vụ, am hiểu kinh tế.
Hoàn thiện phương pháp XHTD. Cần hướng tới việc xây dựng hệ thống XHTDNB theo phương pháp tiếp cận nội bộ cơ bản hoặc nâng cao (FIRB hoặc AIRB) theo chuẩn Basel II. Có như vậy, việc XHTD mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro hữu dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro của NHTM.
Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu đồng bộ. Hiệu quả của hệ thống XHTDNB theo thông lệ quốc tế phụ thuộc vào sự đồng bộ về hạ tầng công nghệ thông tin, chất lượng cơ sở dữ liệu, cũng như khả năng lưu trữ dữ liệu đa chiều và theo lịch sử. Muốn vậy, ngoài việc tăng cường quản lý nhà nước về minh bạch thông tin trong ngân hàng, công tác nhập liệu từ các bộ phận liên quan (chủ yếu là chi nhánh của ngân hàng) phải được cập nhật và lưu trữ đầy đủ, chuẩn xác.
Giám sát việc triển khai và ứng dụng XHTD trong hoạt động tín dụng. Theo đó, NHTM cần định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc tuân thủ các quy định XHTD, đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào, hạn chế các sai sót từ những nguyên nhân chủ quan hay khách quan làm sai lệch tình hình thực tế của khách hàng.
4.3.2.3. Đối với hoạt động QTRR tác nghiệp
Áp dụng triệt để 4 vấn đề chính và 10 nguyên tắc vàng về QTRR tác nghiệp theo Ủy ban Basel (Phụ lục 3). Đối với NHTM, tất cả các cấp từ hội đồng quản trị, ban giám đốc, và tất cả nhân viên phải nhận thức được tầm quan trọng của rủi ro
hoạt động. Hội đồng quản trị cần thuê tư vấn xây dựng khung quản trị RRTN phù hợp cho ngân hàng của mình và môi trường kinh doanh.
Về vấn đề cấu trúc quản trị RRTN, NHTM cần thành lập, hoàn thiện ủy ban quản lý rủi ro riêng biệt, trong đó quản trị RRTN là một bộ phận. Bộ máy giám sát rủi ro của ngân hàng cần hoạt động độc lập, không tham gia vào quá trình tạo rủi ro, có chức năng quản lý, giám sát rủi ro.
Nâng cao nhận thức, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là hHội đồng quản trị cũng như tất cả các nhân viên trong ngân hàng về vai trò, tầm quan trọng của quản trị RRTN. Theo đó, các nhân viên cần được đào tạo để hiểu biết và tham gia tự xác định rủi ro hoạt động. Điều này sẽ đẩy mạnh việc xây dựng mô hình hệ thống quản trị RRTN và văn hóa QTRR trong ngân hàng. Ngoài ra, các NHTM có thể lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên để thiết lập các chốt kiểm tra về RRTN.
Ngân hàng cần chủ động thiết lập cơ chế, quy trình cho việc triển khai hoạt động QTRR tác nghiệp gồm (1) thiết lập và hoàn thiện khung quản trị RRTN; và (2) triển khai áp dụng khung quản trị RRTN: 1) Đối với quá trình thiết lập và hoàn thiện khung quản trị RRTN, NHTM cần xây dựng chính sách, cơ cấu tổ chức, quy trình và giải pháp phần mềm quản trị RRTN trong nội bộ NHTM, trong đó mô hình tổ chức quản trị RRTN được nhiều NHTM thế giới áp dụng là mô hình 3 lớp phòng vệ; 2) Đối với quá trình triển khai và áp dụng khung quản trị RRTN, các NHTM thực hiện các bước theo quy trình thông lệ quốc tế nhằm xác định RRTN trong chính sách, quy định, quy trình và văn hóa, thói quen làm việc của cán bộ trong nội bộ ngân hàng. Công việc có vai trò quan trọng trong quy trình quản trị RRTN chính là thu thập dữ liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại của NHTM theo nhiều nguồn, nhằm phục vụ cho việc đo lường RRTN thông qua các công cụ quản lý như mô hình đo lường rủi ro VaR; chỉ số rủi ro chính (KRI - Key Risk Indicator)…
Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đo lường rủi ro chính KRIs (Key Risk Indicators) và lựa chọn phương pháp tính chi phí vốn phù hợp theo Basel II đối với từng NHTM. Mặc dù NHTM được phép lựa chọn áp dụng phương pháp BIA, SIA hay AMA, nhưng trong tương lai, phương pháp áp dụng AMA là cần thiết để phù hợp với mức độ phức tạp của hoạt động ngân hàng hiện đại mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đang hướng tới.
Xây dựng ngân hàng dữ liệu về rủi ro hoạt động và sử dụng công nghệ hiện đại trong phân tích, xử lý RRTN. Nên nhanh chóng xây dựng quy trình hướng dẫn để thu thập thêm các thông tin tổn thất. Nếu có điều kiện, tối ưu hóa công nghệ hiện