Xây Dựng Các Tiêu Chuẩn Về Cung Cấp Và Quản Lý Thông Tin Về Hoạt Động Của Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam

Về đối tượng: Trước mắt, ST đối với các NHTMCP trong nước (chiếm khoảng 86% tổng tài sản của cả hệ thống TCTD). Về dài hạn có thể mở rộng đối tượng ST nhằm mang tính cẩn trọng vi mô hơn.

Về dữ liệu: Mô hình sử dụng dữ liệu của nhóm NHTM trong nước. Các dữ liệu được chiết xuất từ Báo cáo tài chính, Bảng cân đối tài khoản cấp 3 của TCTD, các báo cáo thống kê về hoạt động của TCTD.

Về phương pháp: Sử dụng tất cả các phương pháp thử sức căng đơn giản phân tích độ nhạy, qua đó đánh giá sự thay đổi CAR của các ngân hàng sau mỗi cú sốc. Thông thường trong hoàn cảnh không có các cú sốc, các ngân hàng hoạt động bình thường tạo ra lợi nhuận. Khi tiến hành đánh giá tác động của các cú sốc tới vốn tự có của ngân hàng thì lợi nhuận giả định ngân hàng đạt được trong hoàn cảnh không có cú sốc sẽ là một tấm đệm phòng thủ (profit buffer) trước khi tổn thất xảy ra ăn sâu vào vốn tự có của ngân hàng. Các cú sốc xảy ra tác động làm lợi nhuận giảm, nếu mức giảm vượt quá tấm đệm lợi nhuận trong hoàn cảnh không có cú sốc thì ngân hàng lỗ và khi đó mới ảnh hưởng đến vốn tự có, CAR của ngân hàng.

Về các kịch bản: Việc lựa chọn kịch bản ST phù hợp (cực độ, bất thường nhưng có khả năng xảy ra) đối với các loại rủi ro là một thách thức không nhỏ. Có nhiều phương pháp để đưa ra các tình huống giả định như chạy các mô hình từ dữ liệu tài chính lịch sử có chú ý đến các thời kỳ khủng hoảng, phương pháp dựa theo các ngưỡng (threshold approach), phương pháp dựa trên các kịch bản xấu nhất (the worst case approach)…

Cơ quan giám sát ngân hàng cần phải thực hiện ST đánh giá thường xuyên và toàn diện hệ thống ngân hàng. Đây là một hoạt động quan trọng nhằm đánh giá mức độ rủi ro và bền vững của hệ thống ngân hàng. Việc đưa ra phương pháp chung, giả định chung để thống nhất cách thực hiện đồng thời công bố thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng sẽ đảm bảo được tính minh bạch, rõ ràng.

Cơ quan giám sát cũng cần là chủ thể công bố kịch bản để các ngân hàng thực hiện. Kịch bản cần được xây dựng kỹ lưỡng và kết hợp với các cơ quan khác như Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê để đưa ra kịch bản vừa mang tính có khả năng xảy ra nhưng cũng mang tính bất thường để đánh giá được khả năng chống đỡ của các ngân hàng trong tình huống bất lợi.

Cơ quan giám sát cần kiểm tra kết quả thực hiện ST tại các ngân hàng như một nội dung bắt buộc trong quy trình đánh giá đủ vốn nội bộ theo trụ cột 2 của Basel II, đồng thời ST cần đánh giá rủi ro một cách toàn diện theo yêu cầu của trụ

cột 1 của Basel II. Cơ quan giám sát cần xác định rõ ràng các đối tượng cần thực hiện ST, thường là các ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng.

4.2.7. Xây dựng các tiêu chuẩn về cung cấp và quản lý thông tin về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Thông tin đầy đủ, chính xác, cập nhật và tiêu chuẩn hóa về hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là một yếu tố cần thiết hàng đầu để thực hiện áp dụng Basel II vào hoạt động KSRR. Hệ thống dữ liệu thông tin không chính xác, không đầy đủ, không được thống nhất cung cấp theo chuẩn mực, thậm chí bị "bóp méo" bởi các NHTM và toàn bộ hệ thống ngân hàng như hiện nay là một thách thức và sẽ gây khó khăn và vô hiệu hóa các hoạt động quản lý, thanh tra và giám sát của NHNN. Do vậy, NHNN trước hết cần phải đi đầu trong việc thực hiện minh bạch cổng thông tin hoạt động của mình. Tiếp đến, cần sớm hoàn thiện quy chế về cung cấp thông tin, thống nhất và tiêu chuẩn hóa nội dung thông tin cung cấp, quản lý và kiểm duyệt để đảm bảo dữ liệu thông tin được cung cấp là chính xác, đầy đủ, cập nhật. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và hoạt động cho bộ phận thu thập, xử lý và cung cấp thông tin, trên cơ sở đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ thông tin thích hợp, cơ sở vật chất và kỹ thuật cần thiết đáp ứng nhu cầu thông tin cho quản lý của NHNN, hoạt động kinh doanh của các NHTM cũng như đối với các chủ thể khác của toàn bộ nền kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

4.2.7.1. Tăng cường hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC) và xây dựng các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân

Thông tin tín dụng (TTTD) là một phần quan trọng trong đóng góp vào việc hạn chế RRTD của các TCTD nói chung và của các NHTM nói riêng trên cơ sở góp phần cung cấp và lành mạnh hóa vấn đề thông tin bất đối xứng. Hệ thống thông tin quản lý là một yếu tố then chốt, hỗ trợ việc đưa ra các quyết định về KSRR nói chung là phải cập nhật và tổng hợp được số liệu của toàn hệ thống hàng ngày, hàng tuần nhằm đánh giá tình trạng thanh khoản kịp thời. Trong quá trình hiện đại hóa công nghệ thông tin, các NHTM cần phải xây dựng một hệ thống thông tin đảm bảo lưu trữ cơ sở dữ liệu tập trung, đầy đủ, chính xác, tức thời, cập nhật và kết nối toàn hệ thống. Cơ sở dữ liệu được lưu giữ và không giới hạn các thông tin phục vụ cho mục đích tác nghiệp, quản lý của các NHTM và tạo ra các báo cáo theo yêu cầu phát sinh.

Kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II - 20

Đối với các NHTM, nắm bắt được các thông tin rõ ràng và đầy đủ về khách hàng để tiến hành phân tích và thẩm định tín dụng sẽ góp phần quan trọng vào việc ra các phán quyết cho vay. Trên cơ sở hệ thống thông tin tín dụng, các NHTM cũng

có thể tính toán tương đối chính xác về khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, nhận biết và đo lường mức độ rủi ro tín dụng. Trong một số trường hợp, thông tin được CIC cung cấp giúp các NHTM có thể áp dụng các món vay, góp phần tăng trưởng tín dụng ngay cả khi khách hàng không có các tài sản đảm bảo. Ngược lại, đối với CQTTGSNH và QTRR hệ thống của NHNN có thể nhìn vào mức độ sử dụng báo cáo TTTD của CIC để đưa ra các quyết định thanh tra tại chỗ hoặc giám sát từ xa. Như vậy, CIC thực sự là cầu nối vững chắc giữa CQTTGSNH với khách hàng vay vốn và các NHTM, hạn chế rủi ro và tổn thất tín dụng.

Tuy nhiên, CIC vẫn còn những hạn chế do lượng thông tin được CIC thu thập, xử lý và cung cấp chưa thực sự đầy đủ, chưa mang tính hệ thống và chưa được cập nhật, do đó chưa đáp ứng đủ nhu cầu tra cứu thông tin của các TCTD thành viên. Thông tin CIC thu thập được chỉ dựa trên các nguồn thông tin được nhận theo yêu cầu định kỳ chứ chưa chủ động tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn độc lập. Vì thế mà các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp và cá nhân đi vay chưa có thói quen truy cập thông tin của CIC. Hơn nữa với những bất cập trong Nghị định 10/2010/NĐ-CP ngày 12/02/2010 về hoạt động thông tin tín dụng còn nhiều hạn chế tiềm ẩn rủi ro gây độc quyền trên thị trường thông tin tín dụng. Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh tính tích cực và chủ động của CIC, cần xây dựng các TTTD nhằm minh bạch hóa thông tin. Do vậy, các NHTM cần:

Một là, xây dựng cơ sở dữ liệu lưu giữ cần được phân loại hình thức lưu trữ, sao lưu thông tin để phục vụ mục tiêu truy xuất tức thời, truy xuất có điều kiện, truy xuất theo thời gian.

Hai là, hệ thống công nghệ thông tin cần đáp ứng tạo ra các thông tin, báo cáo quản lý từ nguồn cơ sở dữ liệu, lưu giữ để đảm bảo tuân thủ các quy định của NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các NHTM.

Ba là, hệ thống công nghệ thông tin phải hoạt động thông suốt, liên tục, ổn định. Đồng thời, các NHTM phải có phương án dự phòng, khắc phục sự cố khi xảy ra để đảm bảo nguyên tắc này.

Bên cạnh đó cần đầu tư, nâng cấp hệ thống Big Data (dữ liệu) và công nghệ thông tin (IT) phục vụ công tác thanh tra, giám sát triển khai Basel II: hiện tại dữ liệu số đang trở thành nguồn tài nguyên mới và Big Data (dữ liệu lớn) đang có vai trò quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng. Trong bối cảnh khối lượng dữ liệu và các nguồn thông tin đang gia tăng với tốc độ nhanh chóng trong các hoạt động kinh tế, việc ứng dụng công nghệ Big Data trong lĩnh vực ngân hàng đang dần trở nên cấp

thiết và phổ biến. Đóng góp to lớn của Big Data đối với ngành ngân hàng và các doanh nghiệp công nghệ giúp họ quản trị và tận dụng được dữ liệu, tài sản lớn nhất của ngành trong thời đại công nghệ số như hiện nay, đặc biệt là trong các vấn đề về kiến trúc doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh, quan hệ khách hàng, QTRR và quản trị hiệu suất,..

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và có tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội và hứa hẹn sẽ tạo nên nhiều động lực mới cho phát triển của mỗi quốc gia, tổ chức. Cuộc cách mạng 4.0 với nền tảng công nghệ tự động hóa và trí tuệ nhân tạo đã đưa dữ liệu lớn lên vai trò trung tâm. Dữ liệu số trở thành một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng trong các doanh nghiệp. Từ nguồn dữ liệu số này có thể tạo ra các doanh thu mới và cung cấp những hệ sinh thái ứng dụng, dịch vụ và sản phẩm kỹ thuật số mới. Vì thế, cách xử lý dữ liệu số sẽ phát triển và trở thành một ngành công nghiệp quan trọng trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Big Data đang có vai trò lớn trong lĩnh vực ngân hàng với các ứng dụng cụ thể như: phân tích, phân loại sự hài lòng và hành vi khách hàng; phân tích phát hiện và cảnh báo, ngăn chặn các hành vi rủi ro, giả mạo; tối ưu hóa hoạt động xử lý dữ liệu trong quá trình vận hành phân tích và hỗ trợ ra quyết định..Do vậy, để triển khai Big Data thành công phải có chiến lược tổng thể đồng thời xây dựng được một đội ngũ chuyên gia có hiểu biết sâu cả về lĩnh vực tài chính và công nghệ thông tin IT, đặc biệt là về Big Data. Xác định kết nối và thu thập dữ liệu cần thiết xây dựng cơ chế chính sách chặt chẽ cho việc bảo mật an ninh thông tin...

4.2.7.2. Hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của ngành xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam

Hiện nay trên thế giới đã có nhiều tổ chức có uy tín trong việc công bố và xếp hạng các chỉ số tín nhiệm như: Standard & Poor's, Moody's hay Fitch. Tại Việt Nam cũng có sự xuất hiện của một số công ty xếp hạng tín nhiệm (XHTN) như: Công ty XHTN CRV, Trung tâm TTTD CIC, Công ty Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh nghiệp (C&R). Tuy nhiên, theo như những báo cáo của họ thì dịch vụ mà CIC và C&R cung cấp giống như là của cơ quan thông tin tín dụng hơn là công ty XHTD, vì các công ty này chưa đưa ra các tiêu chuẩn rõ ràng để xếp hạng tín nhiệm. Năng lực các đơn vị đánh giá xếp hạng độc lập cũng còn yếu kém, chưa thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này.

Để thiết lập được một hệ thống đánh giá và xếp hạng tín nhiệm có uy tín rất khó khăn và phức tạp. Khi lấy thông tin của một doanh nghiệp, phải có một hành lang pháp lý để đảm bảo rằng những thông tin của doanh nghiệp không được sử dụng vào những mục đích bất lợi cho họ. Hơn nữa, để có được thông tin chính xác nhất, cập nhật nhất cũng rất khó khăn vì nhiều doanh nghiệp vẫn có thể tránh né, đưa thông tin sai lệch hay làm đẹp các con số kế toán của mình. Vì thế cần luật hóa hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập.

Vấn đề nhận thức vẫn là rào cản lớn của lĩnh vực xếp hạng tín nhiệm vì bên cạnh việc không ít doanh nghiệp hay tổ chức vẫn chưa quen với việc công khai tình hình “sức khỏe” thì thói quen tham gia và sử dụng các bảng đánh giá xếp hạng ở Việt Nam còn chưa phổ biến. Một trong những nguyên tắc của WTO mà các quốc gia muốn gia nhập là phải công khai minh bạch thông tin. Đây cũng chính là một trong 3 trụ cột của chuẩn mực Basel II. Trong khi đó, XHTN là để thể hiện sức mạnh, năng lực tài chính và khả năng chịu rủi ro của mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu không có một công ty xếp hạng tín dụng trong nước nào thì các doanh nghiệp Việt Nam phải dựa vào các công ty xếp hạng nước ngoài khi phát hành trái phiếu trên thị trường trong nước; mặt khác và quan trọng hơn, đây chính là thông tin cơ bản để các nhà đầu tư nước ngoài đưa ra quyết định đầu tư. Vì thế, cần xã hội hóa hoạt động này để các doanh nghiệp, tổ chức nhận thức được vai trò quan trọng của XHTN và sử dụng nó như một tấm hộ chiếu để hội nhập quốc tế.

4.2.7.3. Cải cách các NHTM phù hợp với bối cảnh hội nhập.

Các loại rủi ro do phát sinh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với vấn đề bảo mật thông tin ngân hàng như: Thông tin về tài khoản khách hàng và vấn đề bảo vệ cơ sở dữ liệu nội bộ cũng rất cần đến các giải pháp công nghệ mang tính đón đầu gắn với gia tăng năng lực của đội ngũ và rèn luyện khắt khe đạo đức nghề nghiệp. Do vậy, việc mở cửa triệt để theo các cam kết toàn diện trong WTO, Cộng đồng Kinh tế ASEAN và các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương khác; đặc biệt là sự hiện diện thương mại của các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng ngày càng nhiều, khiến cho sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng ngày càng gay gắt. Ngoài ra, rủi ro do cạnh tranh dịch vụ theo đó cũng ngày càng tăng, vì thế NHNN cần phát triển, hoàn thiện và đổi mới.

4.2.7.4. Tiếp tục thúc đẩy công tác đào tạo, tuyên truyền thực hiện Basel II thông qua hợp tác quốc tế; đề xuất chuyên gia phù hợp với nhu cầu; tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn cho cán bộ triển khai Basel II (ở các cấp) tại các ngân hàng, phối hợp với các tổ chức tư vấn để chia sẻ kinh nghiệm về triển khai Basel II

Các quy định về Basel II của NHNN cần có sự tham gia, góp ý rộng rãi của các NHTM. Basel II là chuẩn mực bao hàm nhiều nội dung phức tạp, có tính kỹ thuật và đồng bộ cao. Do đó, trong kế hoạch triển khai Basel II, ngoài quy trình lấy ý kiến rộng rãi, NHNN sẽ tiến hành tham vấn ý kiến của các chuyên gia, các NHTM (nhất là 10 NHTM được lựa chọn áp dụng Basel II vào năm 2015) ngay khi nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy định, hướng dẫn Basel II dưới hình thức hội thảo, tọa đàm, trao đổi trực tiếp hoặc các hình thức khác đối với các nội dung cần thiết để đảm bảo tính tuân thủ đối với các yêu cầu của Basel II và tính khả thi đối với các NHTM khi thực hiện. Sự phối hợp giữa NHNN và NHTM trong việc xây dựng và triển khai quy định hướng dẫn Basel II là rất cần thiết để tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động.

Ngân hàng Nhà nước có các cơ chế nhằm khuyến khích và hỗ trợ cho 10 ngân hàng áp dụng Basel II. Thực hiện Basel II tại Việt Nam được coi là giải pháp tái cơ cấu có tính đột phá, phân bổ vốn hợp lý theo rủi ro, tạo ra giá trị cốt lõi và sự phát triển bền vững trong tương lai cho chính bản thân các NHTM; đồng thời tạo nền tảng cho sự an toàn, phát triển lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, trong quá trình triển khai, NHNN cần có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện đối với các NHTM khi thực hiện Basel II, nhất là 10 NHTM được NHNN lựa chọn thực hiện Basel II - Phương pháp nâng cao thông qua các hình thức như: hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cơ sở dữ liệu, hỗ trợ kỹ thuật và phối hợp xử lý các khó khăn, vướng mắc của từng NHTM. Trong khuôn khổ các dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế cho việc triển khai Basel II, NHNN tạo điều kiện để các NHTM được tham gia những dự án này.

Bên cạnh đó, cần có kế hoạch sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nguồn tài chính hiện có của cả NHNN và các NHTM. Thực tế, hầu hết các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã triển khai Basel II, NHNN làm đầu mối tận dụng những kinh nghiệm, kỹ thuật triển khai Basel II đó để xem xét áp dụng vào các TCTD Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước cần tạo ra cơ chế hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng Basel II giữa ngân hàng nước ngoài và TCTD Việt Nam thông qua

các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm hoặc thúc đẩy hợp tác song phương giữa các TCTD Việt Nam và ngân hàng nước ngoài.

Cần tối ưu hóa các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ cho NHNN và các NHTM. Ngân hàng Nhà nước cần chủ động, tăng cường đào tạo cho cán bộ của NHNN về các nội dung của Basel II để hỗ trợ các ngân hàng triển khai Basel II. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ vẫn là nội dung ưu tiên trong thời gian tới.

Cần thiết phải xây dựng và ban hành cuốn Sổ tay Basel II đối với các NHTM Việt Nam (theo kinh nghiệm của Thái Lan), trong đó hướng dẫn chi tiết về quy trình, điều kiện, tiêu chuẩn… liên quan tới việc xây dựng hệ thống QTRR trong ngân hàng theo Basel II.

Ban hành cơ chế tăng cường sự hợp tác, liên kết hoạt động, chia sẻ và trao đổi thông tin giữa các quốc gia trong khu vực nhằm tăng cường hoạt động KSRR đối với các ngân hàng có hoạt động kinh doanh quốc tế và hạn chế các vấn đề xung đột trong mối quan hệ giữa quốc gia chủ - khách trong thực thi, giám sát ngân hàng theo Basel II.

4.3. Kiến nghị áp dụng kiểm soát rủi ro theo Basel II của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với hệ thống ngân hàng thương mại

4.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ

Áp dụng các nguyên tắc và chuẩn mực Basel II vào KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM là một vấn đề rất lớn, mang tính quốc gia, không phải chỉ riêng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để thực hiện những giải pháp trên đây, những khuyến nghị chính sách sau đây cần được nghiên cứu và triển khai áp dụng.

4.3.1.1. Chính phủ cho phép đổi mới hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng tới các chuẩn mực của Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế thị trường

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng quản lý, điều tiết hoạt động NH nói chung, hoạt động thanh tra, giám sát và KSRR nói riêng của NHNN đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM trong thời gian 2010 - 2016, theo tác giả, để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu áp dụng Basel II vào hoạt động KSRR của NHNN, bản thân hoạt động của NHNN cũng cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng trở thành một NHTW thực sự như các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới. Luận án đưa ra một số khuyến nghị cơ bản như sau:

Một là, xác lập vị thế độc lập tương đối của NHNN đối với Chính phủ

Thực tế ở nhiều nền kinh tế thị trường đã chỉ ra rằng mức độ độc lập tương đối của NHTW và Chính phủ là thực sự cần thiết để đảm bảo vai trò, chức năng nhiệm vụ của NHTW đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Tại Việt Nam hiện nay, đã đến thời điểm cần phải xác định rõ mức độ độc lập của NHNN với Chính phủ theo những nguyên tắc mang tính luật định để NHNN có vị thế hơn trong việc quản lý hoạt động của hệ thống các TCTD một cách hiệu quả, có trách nhiệm thực sự. Chỉ như vậy, vai trò và hiệu lực của bộ máy thanh tra, giám sát của NHNN mới được tăng cường giúp cho hoạt động KSRR trong hoạt động kinh doanh của các NHTM mới đáp ứng được các chuẩn mực của Basel II và các chuẩn mực quốc tế khác. Cụ thể là: (1) Độc lập của NHNN trong xây dựng cơ chế hoạt động và vận hành các công cụ, phương thức quản lý đối với hoạt động của hệ thống các TCTD theo các nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải được độc lập về hoạt động cần xây dựng những nguyên tắc để đảm bảo rằng NHNN là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế, không thực hiện những nhiệm vụ bao cấp về tài chính cho nền kinh tế như tài trợ bội chi NSNN bằng phương thức cho vay trực tiếp, tài trợ các chương trình phát triển, tái cấp vốn, xóa nợ…; (2) Độc lập về mặt tổ chức và nhân sự của NHNN: Cơ quan NHNN nói chung và bộ máy CQTTGSNH nói riêng được bổ nhiệm sao cho hoạt động của NHNN và của CQTTGSNH có khả năng độc lập, khách quan, không chịu áp lực bởi các vấn đề chính sách, các mục tiêu phát triển, các mục tiêu chính trị và đảm bảo luôn ổn định trước những thay đổi của Chính phủ theo cơ chế nhiệm kỳ.

Chính phủ cần xây dựng đề án kiến nghị với Quốc hội bổ sung sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước, theo đó tăng cường quyền tự chủ tài chính cho NHNN, cho phép NHNN thay thế những biện pháp quản lý hành chính bằng các biện pháp gián tiếp thông qua thanh tra, giám sát và kiểm toán trên cơ sở thống nhất hoá hệ thống thông tin và chế độ báo cáo thống kê của các NHTM và các tổ chức tài chính thành viên khác của thị trường. Kiên quyết hạn chế, tiến tới xóa bỏ các quy định quản lý mang tính hành chính cứng nhắc, đặc biệt là sự áp đặt về lãi suất, tỷ giá, doanh số giao dịch, v.v...

Hai là, xác lập vị thế tài chính để đảm bảo sự chủ động trong hoạt động quản lý, điều hành và giám sát của Ngân hàng Nhà nước

Vị thế của NHNN Việt Nam là rất hạn chế và điều này làm giảm hiệu quả các hoạt động điều tiết mang tính chức năng của NHNN. Theo Luật NHNN (2010), vốn pháp định của NSNN và hoạt động thu - chi tài chính của NHNN theo Luật

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí