được đánh giá, theo dõi một cách chặt chẽ và các nguồn lực giám sát phải được phân bổ hợp lý. Tất cả các rủi ro của ngân hàng phải được nhận biết, đo lường, giám sát và kiểm soát được trước hết từ bản thân ngân hàng thông qua các công cụ quản trị rủi ro và từ các cơ quan giám sát ngân hàng thông qua các nghiệp vụ giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ dựa trên cơ sở rủi ro một cách liên tục. Vì vậy, cơ quan giám sát ngân hàng phải có thẩm quyền quy định và sử dụng các quy chế an toàn (định tính và định lượng) để kiểm soát các rủi ro đó, chẳng hạn mức độ đủ vốn, dự phòng rủi ro, phân loại nợ, khả năng thanh khoản, kiểm soát nội bộ, quy định quản trị rủi ro nhằm hạn chế việc chấp nhận rủi ro quá mức của các ngân hàng. Các quy định an toàn này không phải thay thế cho các quyết định quản lý của ngân hàng mà đúng hơn là các chuẩn mực thận trọng tối thiểu để bảo đảm các ngân hàng tiến hành các hoạt động một cách hợp lý.
Cơ quan giám sát ngân hàng cần phải đảm bảo các NHTM có đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro, bao gồm vốn, kỹ năng quản trị, hệ thống kiểm soát hữu hiệu và các hồ sơ kế toán. Cơ quan giám sát ngân hàng đồng thời phải có sự phối hợp tốt với các cơ quan giám sát tài chính ở trong nước và ngoài nước để giám sát các hoạt động tài chính phi ngân hàng và các hoạt động ngân hàng quốc tế do các ngân hàng tiến hành.
4.1.1.2. Điều kiện cho ngân hàng thương mại
Năng lực QTRR
Các ngân hàng đạt được trình độ quản lý rủi ro nhất định và phát triển được hạ tầng công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin thích hợp để ứng dụng các thông lệ tốt về quản trị doanh nghiệp và các nguyên tắc thiết lập, vận hành các hệ thống kiểm soát nội bộ và QTRR (tín dụng, thị trường, thanh khoản và vận hành). Các ngân hàng phải thiết lập được hệ thống QTRR nội bộ chuyên nghiệp phù hợp với thông lệ tốt và đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của cơ quan giám sát ngân hàng để phát hiện, đo lường, quản lý và giám sát thoả đáng các loại rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng để vận hành hệ thống QTRR, đặc biệt đối với hệ thống quản lý rủi ro thị trường, tín dụng và rủi ro hoạt động dưới dạng mô hình hoá rủi ro
Hệ thống dữ liệu tin cậy và chính xác cao
Thu thập và lưu trữ dữ liệu là việc rất quan trọng trong bất kỳ dự án triển khai Basel II nào. Phân tích chênh lệch về dữ liệu, bao gồm việc so sánh mức độ sẵn có và chất lượng của dữ liệu hiện có với các yêu cầu về dữ liệu của Basel II,
phải được tiến hành ngay trong giai đoạn đầu của dự án. Từ đó, các ngân hàng xác định được các yêu cầu dữ liệu bổ sung và bố trí nhân sự phù hợp để thu thập và làm sạch dữ liệu. Nếu không thực hiện phân tích chênh lệch dữ liệu và có các phương án bổ sung, làm giàu dữ liệu, thì chi phí và thời gian thực hiện triển khai dự án Basel II sẽ cao hơn nhiều kế hoạch ban đầu.
Việc kiểm tra chất lượng của dữ liệu và đối chiếu với sổ cái cũng là một thách thức trong quá trình triển khai Basel II nhằm đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của dữ liệu. Các ngân hàng phải trả lời được câu hỏi: liệu dữ liệu đã đầy đủ và “khớp” với số liệu đã kiểm toán hay chưa, cũng như đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng dữ liệu của Basel II chưa?
Yêu cầu về chi phí, tài chính
Có thể bạn quan tâm!
- Về Kiểm Soát Việc Tuân Thủ Nguyên Tắc Thị Trường, Minh Bạch Thông Tin
- Danh Sách Các Nhtm Sử Dụng Trong Mô Hình Stress Test (Số Liệu Đến Thời Điểm 31/12/2017)
- Giả Định Kết Hợp Các Cú Sốc Tín Dụng, Lãi Suất, Tỷ Giá
- Hoàn Thiện Mô Hình Tổ Chức Của Cơ Quan Thanh Tra, Giám Sát
- Xây Dựng Các Tiêu Chuẩn Về Cung Cấp Và Quản Lý Thông Tin Về Hoạt Động Của Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam
- Củng Cố Hệ Thống Thông Tin Về Kinh Tế - Tài Chính, Luật Pháp Hóa Việc Cung Cấp Thông Tin Về Hoạt Động Ngân Hàng Và Thị Trường Tài Chính
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Một yêu cầu nữa là chi phí triển khai Basel II. Các yêu cầu về tuân thủ Basel II dự kiến là một khó khăn cho các ngân hàng, đòi hỏi chi phí triển khai lớn. Trong tương lai, chi phí tuân thủ trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tăng cao, và chỉ những ngân hàng có khả năng tài chính mới có thể thực hiện. Chi phí cho triển khai dự án tập trung vào chi phí đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, chi phí thuê tư vấn và chi phí nguồn nhân lực.
4.1.2. Lộ trình áp dụng chuẩn mực Basel II về kiểm soát rủi ro đối với hệ thống ngân hàng thương mại
Để triển khai có hiệu quả việc KSRR trong hoạt động của các NHTM theo Hiệp ước Basel II, NHNN Việt Nam đã vạch ra một lộ trình áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM một cách cẩn trọng. Cụ thể, lộ trình triển khai thực hiện Basel II trong toàn hệ thống TCTD được NHNN đưa ra theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng (Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và Maritime Bank). Chương trình thí điểm bắt đầu từ tháng 2/2016, mục tiêu là đến cuối năm 2018 các ngân hàng này phải cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II.
Giai đoạn 2: Đến năm 2020 cơ bản các NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II [125].
Theo đánh giá về tính khả thi khi yêu cầu các NHTM tuân thủ theo chuẩn Basel II, EY Việt Nam cho rằng, mục tiêu hướng tới chuẩn Basel II vào năm 2018 không phải quá xa vời. Việc ban hành các quy tắc tính toán vốn theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II không phức tạp mà cái khó là ở các hệ số rủi ro cần được thiết lập ở Việt Nam ở mức nào là phù hợp. Hơn nữa, các NHTM đều đã thực hiện
phân tích hiện trạng và đưa ra lộ trình triển khai Basel II. Thách thức lớn nhất hiện nay là việc NHNN có kịp ban hành các văn bản theo đúng thời hạn để các NHTM áp dụng hay không; NHNN sẽ thiết lập các tỷ lệ an toàn ở mức độ như thế nào để phù hợp với mặt bằng các NHTM trong nước và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng đến hệ thống khi áp dụng các tiêu chuẩn trên.
Thực tế quá trình triển khai Basel của các NHTM tại Việt Nam hiện nay cho thấy, hầu hết các NHTM đều thực hiện lộ trình triển khai theo kiến nghị của tư vấn riêng của mỗi NHTM tùy theo điều kiện, đặc điểm của từng ngân hàng. Quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, tuy nhiên, hầu như các NHTM thông qua tư vấn đều tự định hướng, xử lý, không qua báo cáo và thông qua ý kiến của NHNN, nguyên nhân có thể do (i) việc triển khai Basel là nội dung mới, chưa có tiền lệ, vì vậy, có những khó khăn nhất định đối với cơ quan quản lý nói chung và các NHTM nói riêng và (ii) triển khai Basel đã có lộ trình, việc báo cáo, xin ý kiến cơ quan quản lý có thể sẽ ảnh hưởng đến quá trình triển khai cụ thể cũng như lộ trình do NHNN quy định. Như vậy có thể thấy, trong triển khai Basel tại Việt Nam, sự gắn kết giữa cơ quan quản lý và các NHTM chưa thực sự chặt chẽ, phần nào có thể ảnh hưởng đến kết quả áp dụng thực tế Basel về sau.
Theo kinh nghiệm trực tiếp tham gia các dự án triển khai Basel của nhóm tác giả tại 2 trong số 10 NHTM được lựa chọn thí điểm thực hiện, quá trình triển khai Basel hiện nay NHNN không đưa ra nội dung và lộ trình cụ thể, không có khung chuẩn về lộ trình triển khai Basel để định hướng cho các ngân hàng để các NHTM thực hiện, trong khi việc áp dụng các quy định của Basel về vốn, về quản lý rủi ro là những quy định mới, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh cũng như an toàn của các NHTM, điều này dẫn đến việc các NHTM tự thực hiện triển khai theo kinh nghiệm, khả năng của mỗi NHTM cũng như các công ty được thuê để tư vấn trong quá trình thực hiện. Việc các NHTM vừa làm, vừa hoàn thiện, không có tổng thể trong triển khai sẽ dẫn đến các khó khăn như (i) lộ trình triển khai sẽ khó đáp ứng tiến độ và (ii) NHNN khó rà soát, kiểm định và chấm đạt chuẩn về sau do không có khung chuẩn các nội dung cần triển khai.
Việc triển khai Basel II tại các NHTM đòi hỏi phải có sự điều hành, chỉ đạo đồng bộ gắn với lộ trình hợp lý bám sát theo mô hình của Basel II từ phía NHNN, như: triển khai quyết liệt, giám sát chặt chẽ và thường xuyên kết quả của 10 ngân hàng thí điểm, chủ động chỉ đạo NHTM thực hiện biện pháp cụ thể, điều chỉnh kế hoạch, tăng cường các nguồn lực cần thiết; sớm hoàn thiện khung pháp lý về kiểm
soát nội bộ trong NHTM; xây dựng và giám sát chặt chẽ chế độ công khai thông tin của các NHTM; xem xét nới “room” cho khối ngoại trong các ngân hàng; tăng cường hợp tác quốc tế để đẩy nhanh lộ trình triển khai Basel II...
4.2. Giải pháp áp dụng và hoàn thiện kiểm soát rủi ro theo Basel II của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
4.2.1. Xây dựng lộ trình và khuôn khổ chính sách chung cho kiểm soát rủi ro các ngân hàng thương mại Việt Nam theo các chuẩn mực Basel II
Áp dụng chuẩn mực Basel vào hoạt động QTRR là xu thế tất yếu của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Nhận thức được điều này, NHNN đã ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 về quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được đánh giá là chặt chẽ và tiếp cận với các quy định của chuẩn mực Basel II. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một văn bản pháp luật cụ thể ban hành về lộ trình thực hiện Basel II như thế nào. Bởi vậy, NHNN cần phối hợp với các ban, ngành có liên quan, nghiên cứu toàn diện thực trạng của hệ thống NHTM để đưa ra lộ trình cụ thể cho việc áp dụng chuẩn mực Basel II tại Việt Nam. Mặc dù việc áp dụng chuẩn mực Basel ở mức độ nào là phụ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển của thị trường tài chính cũng như của hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia, tuy nhiên, việc nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các quốc gia trên thế giới là rất cần thiết.
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng khung khổ pháp lý toàn diện và thống nhất về hệ thống quản lý rủi ro trong NHTM Việt Nam thông qua việc nhanh chóng hoàn thiện Thông tư quy định về Hệ thống KSRR trong hoạt động ngân hàng của NHNN Việt Nam, làm cơ sở để các NHTM xây dựng hệ thống KSRR của riêng mình.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần thiết phải có lộ trình cụ thể về thời gian áp dụng Basel II trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước đã triển khai, trong đó nhấn mạnh tới việc phân loại ngân hàng trong triển khai Basel II. Mặc dù áp dụng Basel II là cần thiết và được xác định trong Chiến lược phát triển ngành ngân hàng 2011 - 2020, nhưng đối với một số ngân hàng có quy mô nhỏ, trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2020 việc áp dụng ngay Basel II là quá sức. Do đó, có thể áp dụng kinh nghiệm của Mỹ và Trung Quốc trong việc phân loại ngân hàng thành 3 nhóm. Trong đó, các NH quy mô lớn là bắt buộc thực hiện, các NH quy mô nhỏ thực hiện khuyến khích nhưng không bắt buộc Basel II mà vẫn duy trì Basel II, sau đó tiến hành hợp nhất và sáp nhập với NHTM khác để tiến tới áp dụng Basel II.
4.2.2. Xây dựng khung pháp lý cho hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực của Basel II
Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai Basel II; trong đó, sớm ban hành thông tư quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, chi nhánh NHNN và tiếp tục dự thảo thông tư tính toán vốn theo phương pháp nâng cao (FIRB) đảm bảo đúng lộ trình triển khai Basel II đã nêu tại Đề án 1058, ban hành kèm theo Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020.
Mục tiêu của Đề án 1058 là: 1) Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; 2) Đến năm 2020, các NHTM cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên); có ít nhất từ 1 đến 2 NHTM năm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á; 3) Phấn đấu đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM; hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của các NHTM cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam; các quỹ tín dụng nhân dân đạt mức vốn điều lệ tối thiểu 01 tỷ đồng và 4) Phấn đấu xử lý và kiểm soát nợ xấu để đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng, nợ xấu đã bán cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%.
Về khuôn khổ pháp lý, mặc dù Basel II có nêu đầy đủ các chuẩn mực, yêu cầu, nguyên tắc áp dụng, nhưng các nước vẫn cần phải đưa ra các quy định, hướng dẫn cụ thể phù hợp với trình độ phát triển, thể chế pháp lý và đặc thù của hệ thống ngân hàng từng nước. Do đó, NHNN cần có kế hoạch ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn cho các NHTM theo từng giai đoạn phù hợp với lộ trình thực hiện Basel II do Thống đốc NHNN phê duyệt, đảm bảo các ngân hàng triển khai thực hiện thống nhất, đồng thời làm cơ sở để NHNN thực hiện việc giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện Basel II.
Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra quy định thống nhất một phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng (trừ các Quỹ tín dụng nhân dân) trên cơ sở kết hợp đánh giá
khả năng trả nợ của khách hàng theo hệ thống XHTDNB và đánh giá thực tế tại các thời điểm đánh giá, phân loại. Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn cụ thể các bước quy trình đánh giá, xếp hạng khách hàng để thống nhất thực hiện, trong đó quy định một số chỉ tiêu với các trọng số đánh giá cụ thể để phục vụ cho công tác quản lý. Các chỉ tiêu và trọng số đánh giá được xác định dựa trên kết quả thống kê, khảo sát số liệu của một số TCTD và đưa vào chạy mô hình toán để xác định.
Trên cơ sở hệ thống XHTDNB, yêu cầu TCTD xây dựng quy định nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng để quản lý chất lượng tín dụng trong suốt quá trình từ khi thẩm định, xét duyệt, cấp tín dụng đến khâu kiểm tra, kiểm soát trong quá trình giải ngân, sau khi cấp tín dụng cũng như việc quản lý tài sản bảo đảm; chính sách dự phòng rủi ro để quản lý quá trình phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro và việc phát mại tài sản bảo đảm; việc phân cấp, ủy quyền và xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân có liên quan trong suốt các quá trình này.
Ngoài ra, cần đảm bảo ở mức tối đa khách hàng giống nhau phải được quản lý giống nhau, từ thẩm định, xét duyệt, cấp tín dụng, hồ sơ tín dụng đến quy trình đánh giá, xếp hạng, phân loại nợ, trích lập dự phòng, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; giữa các tổ chức tín dụng đều thống nhất việc đánh giá, xếp hạng, phân loại nợ, trích dự phòng, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.
4.2.3. Cải cách hệ thống kế toán ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế
Áp dụng theo tiêu chuẩn an toàn vốn Basel luôn là thách thức đối với hệ thống tín dụng của Việt Nam. Với sự quyết tâm của ngành ngân hàng thời gian qua, các chuyên gia đang đặt nhiều kỳ vọng vào lộ trình tiến tới Basel II sẽ được đẩy nhanh hơn.
Từ tháng 2/2016, 10 NHTM, gồm: BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB được NHNN yêu cầu thực hiện thí điểm triển khai Basel II. Theo lộ trình áp dụng, sau 3 năm thực hiện (đến cuối năm 2018), 10 ngân hàng này sẽ phải đáp ứng tuân thủ các chuẩn mực vốn theo Basel II và NHNN sẽ triển khai rộng rãi cho toàn hệ thống [126].
Chính vì thế, ngay từ những ngày đầu năm 2017, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu. Trong đó, Thống đốc NHNN yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của các TCTD, áp dụng chuẩn mực vốn Basel II và các nguyên tắc QTRR theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế đi
đôi với việc đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai các biện pháp khuyến khích và bắt buộc (trong một số trường hợp cần thiết) tăng vốn điều lệ để cải thiện năng lực tài chính và mức độ an toàn.
Tại chương trình hành động của Chính phủ nhằm thực hiện theo các Nghị quyết số 05/NQ-TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14, Chính phủ đã yêu cầu NHNN tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; đến năm 2020, các NHTM cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên).
Để chuẩn bị cho những mục tiêu trên, cuối năm 2016, NHNN đã ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở mức 8% [49]. Như vậy, tỷ lệ này thấp hơn 1% so với hệ số CAR tối thiểu 9% quy định tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN đang được áp dụng hiện tại. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 1/1/2020 nhưng các ngân hàng có khả năng thực hiện tỷ lệ an toàn vốn trước thời hạn có thể gửi văn bản đăng ký áp dụng trước. Động thái này được các chuyên gia đánh giá là tín hiệu mở đường cho việc áp dụng theo chuẩn Basel II (hệ số CAR theo Basel II là 8%).
Mặc dù vậy, các quy định về mức độ đủ vốn CAR của các ngân hàng Việt Nam đã dần theo thông lệ quốc tế nhưng vẫn chưa áp dụng hết theo Basel II. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các NHTM tính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam cao hơn nhiều so với mức tối thiểu 9% hiện tại. Mặc dù các NHTMCPNN có hệ số CAR trung bình thấp nhất, nhưng vẫn đạt trên 10%. Tuy vậy, CAR của hệ thống NH Việt Nam thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực - trong điều kiện hầu hết đã áp dụng Basel II, đang bắt đầu áp dụng Basel III.
4.2.4. Đổi mới cơ chế quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM và thị trường tiền tệ
Quản lý, điều tiết và giám sát của NHNN cần tôn trọng quyền tự chủ về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ chức bộ máy và nhân sự của các NHTM, trên cơ sở chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Quan hệ giữa NHNN với các NHTM không chỉ là quan hệ quản lý nhà nước mà còn là quan hệ “bạn hàng” kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường, minh bạch. Triệt để xóa bỏ bao cấp, đặc quyền, thiên vị và độc quyền kinh doanh của mọi NHTM, không phân biệt loại hình sở hữu hay quy mô hoạt động.
Để thực hiện tốt việc áp dụng Basel II vào KSRR của các NHTM, vai trò tạo lập môi trường thuận lợi của NHNN trong các hoạt động quản lý như ban hành các quy định, chính sách, điều tiết hoạt động của các NHTM và của thị trường tiền tệ là rất quan trọng. Hoàn thiện quy chế điều hành hoạt động tín dụng của các NHTM thông qua các nghiệp vụ tái cấp vốn (cung cấp các gói hỗ trợ cho người mua nhà có thu nhập thấp, linh hoạt điều tiết lượng tiền cung ứng, trung hòa kịp thời lượng tiền đồng đưa ra thị trường trong giai đoạn NHNN mua được nhiều ngoại tệ…), tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ hoặc giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tạo điều kiện cho điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hoạt động của thị trường mở, áp dụng các công cụ phái sinh,… sẽ góp phần giảm thiểu các công cụ điều tiết và quản lý mang tính hành chính trực tiếp gây khó khăn cho các NHTM. Tiếp tục tự do hóa lãi suất để thúc đẩy sự phát triển hoạt động của thị trường tiền tệ. Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt.
Trong thời gian tới NHNN nên tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Về định hướng dài hạn là đổi mới điều hành chính sách tiền tệ, nâng cao hiệu quả thanh tra giám sát ngân hàng, chống đô - la hóa và vàng hóa trong nền kinh tế.
4.2.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
Thực hiện lộ trình cam kết gia nhập WTO về mở cửa thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc về chất và lượng. Bên cạnh những cơ hội phát triển, sẽ là những thách thức đối với các ngân hàng về QTRR, cũng như đòi hỏi các cơ quan giám sát ngân hàng phải đánh giá được rủi ro, tuân thủ nguyên tắc giám sát rủi ro để từ đó có giải pháp giám sát hiệu quả. Vì vậy, NHNN cần nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để quản lý hệ thống các NHTM cũng như theo sát sự phát triển của thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
4.2.5.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, pháp quy về thanh tra, giám sát ngân hàng.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, pháp quy về thanh tra, giám sát ngân hàng an toàn hoạt động ngân hàng để đảm bảo đầy đủ và đồng bộ. Theo đó, NHNN đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; Tham mưu Chính phủ ban hành Chỉ thị số 32/CT-TTg triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH4 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42); NHNN ban hành: Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 của NHNN về việc thực hiện Nghị quyết 42 và Quyết định 1058; Thông