tư số 36/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành Ngân hàng; Thông tư số 08/2017/TT-NHNN ngày 01/8/2017 quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng; đồng thời đang tiếp tục rà soát, hoàn thiện để ban hành các quy định về QTRR trong hoạt động ngân hàng; XHTCTD; các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng phù hợp, tiệm cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế… Đặc biệt trong thời gian tới, NHNN tiếp tục tham mưu Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa sở hữu chéo, lạm dụng quyền quản trị, điều hành, quyền cổ đông lớn để thao túng hoạt động
4.2.5.2. Hoàn thiện mô hình tổ chức của cơ quan thanh tra, giám sát
Việc cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của một số Vụ, Cục của NHNN hiện nay thành Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN đã và đang đảm bảo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ là cơ quan thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu: cấp phép, ban hành quy chế, thực hiện giám sát (giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ), xử phạt và thu hồi giấy phép. Việc cơ cấu lại chức năng theo hướng trên nhằm hạn chế những bất cập trong việc tách bạch giữa các khâu này, tạo ra bức tranh toàn diện và sâu sắc hơn về từng NHTM, đảm bảo sự nhất quán và nâng cao hiệu lực của hoạt động giám sát.
Bên cạnh đó, cần tăng cường vị thế pháp lý và quyền lực của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia để Ủy ban này có thể thực hiện nhiệm vụ giám sát hiệu quả giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; tăng cường sự phối hợp công tác, chia sẻ thông tin giữa NHNN và các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan chức năng trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.
4.2.5.3. Đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Ngân hàng nhà nước đã tiến hành xây dựng và thực hiện triển khai phương pháp giám sát theo CAMELS. Như đã phân tích, việc triển khai thực hiện giám sát ngân hàng theo phương pháp giám sát CAMELS hiện nay của NHNN được đánh giá là phù hợp với mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn này.
Việc đổi mới phương pháp giám sát của NHNN Việt Nam đòi hỏi phải được thực hiện dần từng bước. Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro là phương pháp giám sát hiện đại mà nhiều quốc gia đang áp dụng. Tuy nhiên, phương pháp giám sát trên cơ sở rủi ro đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính, cơ cấu và cách thức quản lý, kiểm soát của NHTM và hoạt động thanh tra, giám sát của
NHNN cũng như cơ sở pháp lý. Do vậy, trong quá trình giám sát cần dịch chuyển dần từ phương pháp CAMELS sang giám sát trên cơ sở rủi ro để hệ thống ngân hàng phát triển kịp theo xu thế chung của thế giới. Bên cạnh đó, cần có một cơ chế chính sách quy định cụ thể các tiêu chí cụ thể để đo lường từng loại rủi ro mà nhất là RRTD.
Đổi mới công tác giám sát theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát an toàn vi mô và giám sát an toàn vĩ mô trên cơ sở triển khai các công cụ, phương pháp giám sát rủi ro mới gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Công tác giám sát phải gắn chặt với công tác thanh tra, cấp phép và ban hành chế độ, chính sách;
Đổi mới công tác thanh tra theo hướng tăng cường thanh tra toàn diện, pháp nhân TCTD, phù hợp với thực tiễn hoạt động của TCTD; kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng, đối tượng giám sát ngân hàng, tiến tới áp dụng phương pháp dựa trên cơ sở rủi ro theo các thông lệ, chuẩn mực quốc tế;
Có thể bạn quan tâm!
- Danh Sách Các Nhtm Sử Dụng Trong Mô Hình Stress Test (Số Liệu Đến Thời Điểm 31/12/2017)
- Giả Định Kết Hợp Các Cú Sốc Tín Dụng, Lãi Suất, Tỷ Giá
- Lộ Trình Áp Dụng Chuẩn Mực Basel Ii Về Kiểm Soát Rủi Ro Đối Với Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
- Xây Dựng Các Tiêu Chuẩn Về Cung Cấp Và Quản Lý Thông Tin Về Hoạt Động Của Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam
- Củng Cố Hệ Thống Thông Tin Về Kinh Tế - Tài Chính, Luật Pháp Hóa Việc Cung Cấp Thông Tin Về Hoạt Động Ngân Hàng Và Thị Trường Tài Chính
- Đối Với Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Thị Trường
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
4.2.5.4. Thống nhất nội dung giám sát
Nội dung giám sát thống nhất được thể hiện trong việc CQTTGSNH của NHNN cần thống nhất trong xây dựng các báo cáo liên quan đến hoạt động giám sát cũng như thống nhất được các nội dung trong từng báo cáo cho tất cả các bên liên quan, đảm bảo bộ phận giám sát từ xa và bộ phận thanh tra tại chỗ phối hợp trong việc xây dựng các báo cáo giám sát, đảm bảo sự hiểu biết của các NHTM trong việc hợp tác và cung cấp thông tin.
Nội dung trong từng báo cáo giám sát cần được thống nhất theo phương pháp giám sát được lựa chọn trong từng thời kỳ. Trong giai đoạn NHNN triển khai phương pháp giám sát theo CAMELS thì nội dung trong từng báo cáo giám sát cần được xây dựng theo các cấu phần của CAMELS, và khi NHNN chuyển dịch dần sang phương pháp giám sát dựa trên rủi ro thì nội dung trong từng báo cáo giám sát cũng cần được thống nhất theo từng loại hình rủi ro. Cụ thể là thống nhất nội dung trong báo cáo giám sát vĩ mô, báo cáo đánh giá xếp hạng, báo cáo cảnh báo sớm, báo cáo tiền thanh tra.
Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro phù hợp với quy trình QTRR của từng NHTM. Trong các NHTM, Hội đồng rủi ro và khối QTRR sẽ chịu trách nhiệm chính đối với KSRR. Do đó, Hội đồng rủi ro và Ban kiểm soát nội bộ phải xây dựng một hệ thống giám sát rủi ro sao cho thông qua quá trình giám sát này có thể đưa ra
các đánh giá về cơ hội rủi ro thu nhập mới cho ngân hàng và từ đó tư vấn tối ưu hóa danh mục rủi ro cho ngân hàng.
4.2.5.5. Hoàn thiện quy trình giám sát
Quản lý và kiểm soát quy trình là một trong những công cụ mà ngân hàng sử dụng để kiểm soát và giảm rủi ro hoạt động phát sinh từ các hoạt động, nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng.
Quy trình giám sát cần có sự kết hợp của hai bộ phận chính là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của CQTTGSNH của NHNN. Bộ phận giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ cần phối hợp hoạt động và xây dựng các sản phẩm báo cáo giám sát, quy trình giám sát cụ thể cũng cần được xây dựng nhằm chỉ rõ các bước công việc, đảm bảo tính chặt chẽ và hiệu quả cho công tác giám sát.
Triển khai thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là một bước chuyển đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong hoạt động thanh tra, giám sát của CQTTGSNH. Để thực hiện phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro, trước hết CQTTGSNH cần phải xây dựng được quy trình thanh tra, giám sát rủi ro, xây dựng hoàn thiện sổ tay thanh tra rủi ro. Sổ tay thanh tra rủi ro là cẩm nang nghiệp vụ giúp cán bộ thanh tra nghiên cứu, ứng dụng khi thanh tra từng nghiệp vụ cụ thể, đặc biệt là việc đánh giá hoạt động quản trị, điều hành, môi trường kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống quản trị rủi ro của các TCTD, hỗ trợ các tiêu chí đánh giá về mức độ rủi ro, xu hướng rủi ro và rủi ro tổng thể...
Quy trình thực hiện thanh tra, giám sát trên sơ sở rủi ro cần bao gồm các bước sau:
1. Tìm hiểu và đánh giá rủi ro của tổ chức tín dụng
2. Lập kế hoạch thanh tra
3. Thành lập đoàn thanh tra và công tác chuẩn bị của đoàn
4. Hoạt động thanh tra
5. Báo cáo kết quả thanh tra và ban hành Kết luận thanh tra
6. Giám sát liên tục đối với tổ chức tín dụng
Sô tay thanh tra trên cơ sở rủi ro cần có các nội dung cơ bản sau:
Sổ tay phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt động của các TCTD tại Việt Nam và tham khảo Sổ tay thanh tra của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam. Sổ tay cần có tối thiểu các nội dung:
1. Lý thuyết chung về thanh tra trên cơ sở rủi ro
2. Những hướng dẫn cụ về từng nội dung thanh tra theo các mảng hoạt động ngân hàng như:
(i) Đánh giá năng lực quản trị rủi ro, mức độ rủi ro, xu hướng rủi ro đối với: hoạt động quản trị, điều hành; hoạt động cấp tín dụng; hoạt động kinh doanh ngoại hối; huy động vốn; đầu tư chứng khoán; thanh toán quốc tế; kiểm soát, kiểm toán nội bộ...
(ii) Thanh tra việc thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn: hệ số an toàn vốn; khả năng thanh toán; giới hạn cấp tín dụng; tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn; tỷ lệ cho vay trên huy động...
(iii) Đánh giá thực trạng tài chính của đối tượng thanh tra.
3. Hướng dẫn đánh giá các loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tuân thủ, rủi ro hoạt động, rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến lược; và tính toán mức độ rủi ro tổng thể
4.2.5.6. Nâng cao chất lượng cán bộ thanh tra giám sát
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch và chiến lược hoạt động, nhằm nâng cao sức cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong công tác KSRR thanh khoản, trình độ của cán bộ ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc thực hiện công việc được giao mà đây là nghiệp vụ quản trị ngân hàng hiện đại, cần có những kiến thức mới, đòi hỏi các cán bộ làm công tác này phải chủ động tìm tòi nghiên cứu qua các tài liệu trong nước, đặc biệt cần tham khảo tài liệu nước ngoài, nghiên cứu và ứng dụng nó vào hoạt động của bản thân ngân hàng mình, trên cơ sở tình hình thực tiễn tại đơn vị.
Do vậy, nâng cao chất lượng, số lượng và năng lực, đạo đức thực thi công vụ của đội ngũ thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng để đáp ứng với tốc độ phát triển của hệ thống tài chính - ngân hàng trong bối cảnh mới là rất cần thiết. Các thanh tra, giám sát viên cần có kiến thức đầy đủ về rủi ro trong hoạt động ngân hàng và các công cụ quản lý rủi ro cũng như chuyên môn nghiệp vụ về giám sát ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát chưa chuyên nghiệp, đặc biệt là các chi nhánh NHNN chủ yếu là kiêm nhiệm, không được đào tạo nhiều về nghiệp vụ giám sát. Ngân hàng Nhà nước cần phát triển một chương trình chuẩn về đào tạo, cấp chứng chỉ và đánh giá cán bộ, việc đào tạo tại các chi nhánh cần nhận được sự chú ý đặc biệt ngay từ đầu.
Để nâng cao chất lượng cán bộ thanh tra, giám sát trong các NHTM, cần thực hiện các công việc sau:
NHTM cần có một chuyên gia tư vấn thường trú có kinh nghiệm để hướng dẫn và đào tạo trực tiếp cho các cán bộ thanh tra tại chỗ và các cán bộ phân tích từ xa. Ngoài ra, NHNN cần bố trí việc hợp tác đào tạo và đào tạo các cán bộ thanh tra ở nước ngoài với mục tiêu rõ ràng.
Xác định nhóm cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt gửi đi đào tạo nước ngoài theo chương trình, nội dung phù hợp với hoạt động của từng NHTM.
Đào tạo trong nước: Theo dõi chương trình đã đào tạo đối với tất cả các cán bộ, công chức; đào tạo nâng cao đối với nhóm cán bộ đã được đào tạo cơ bản. Định kỳ cập nhật và hoàn thiện hệ thống tài liệu giảng dạy. Cần phân công công việc, quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm dựa trên bản mô tả công việc của từng chức danh cụ thể, xác định những yêu cầu về năng lực, trình độ học vấn và nhận thức đối với từng vị trí công việc đồng thời quy định từng hạn mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận được với từng cấp quản lý trong hệ thống điều hành KSRR thanh khoản của các NHTM.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, chuyên sâu đối với từng lĩnh vực hoạt động, từng sản phẩm, dịch vụ mới bằng nhiều hình thức như tổ chức huấn luyện ngắn ngày, hội thảo chuyên đề khoa học, hợp tác trao đổi với các ngân hàng có quan hệ đại lý hay tự đào tạo tại các chi nhánh, trung tâm đào tạo khu vực theo các chương trình thống nhất và chuẩn hóa. Do công tác KSRR cũng ảnh hưởng đến chất lượng tất cả các nghiệp vụ ngân hàng nên nếu đội ngũ nhân viên tác nghiệp tinh thông nghiệp vụ thì chất lượng hoạt động của các ngân hàng sẽ được nâng cao, rủi ro sẽ được giảm thiểu kéo theo đó thì công tác KSRR cũng sẽ có nhiều thuận lợi. Do vậy, các NHTM cần phải thường xuyên tập huấn và tái đào tạo để cập nhật những thay đổi về chế độ, chính sách, những kiến thức nghiệp vụ mới cho các nhân viên tác nghiệp.
Cần tuyển chọn, đào tạo nhân sự có chất lượng, gắn bó lâu dài với ngân hàng. Trong các nguồn lực cần huy động, chuẩn bị để triển khai Basel II, con người là nhân tố quan trọng nhất, bởi nếu không có nguồn nhân lực chất lượng thì các hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu hiện đại và mô hình phức tạp đến đâu cũng không thể sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó, một dự án Basel II cần khoảng thời gian dài, thông thường tối thiểu 5 năm. Vì vậy, các ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng nhân sự chất lượng cao và cam kết gắn bó làm việc lâu dài để thực hiện dự án.
Như vậy, cần xây dựng và đào tạo cán bộ, công chức giám sát ngân hàng chuyên sâu: Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức giám sát là giải pháp mang tính nền tảng cho việc nâng cao hiệu quả của công tác giám sát các TCTD.
Nó được thực hiện thông qua công tác cán bộ, công chức như tuyển dụng, sắp xếp cán bộ, công chức, chính sách đãi ngộ và các biện pháp khuyến khích khác, trong đó đặc biệt coi trọng đào tạo các kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ, phương pháp giám sát ngân hàng mới theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế [125].
4.2.5.7. Tăng cường trao đổi thông tin giữa cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan tài chính.
Tăng cường trao đổi thông tin giữa CQTTGSNH với các cơ quan giám sát tài chính trong và ngoài nước, trong đó tăng cường hợp tác quốc tế song phương, đa phương về giám sát ngân hàng; xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giám sát thị trường tài chính trực tiếp giữa NHNN và Bộ Tài chính; giữa CQTTGSNH và CQTTGS tài chính; tăng cường sự hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm và đối thoại chính sách giữa Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan giám sát tài chính trong nước thông qua hình thức tổ chức các diễn đàn, hội thảo, hội nghị chuyên đề.
Ngoài các nội dung trên, cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đối với các TCTD: Song song với việc hoàn thiện khuôn khổ thể chế, cần nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ để nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát theo hướng tiếp cận trình độ của khu vực và quốc tế; trong đó xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ và tiên tiến để phục vụ cho hiện đại hóa công nghệ thanh tra, giám sát ngân hàng, bao gồm phần cứng, phần mềm ứng dụng và cán bộ công nghệ thông tin. Đây là cơ sở và nền tảng cho việc áp dụng các công cụ định lượng trong hoạt động giám sát ngân hàng.
4.2.6. Triển khai các công cụ, chương trình KSRR
4.2.6.1. Quy trình thu thập và xử lý sự kiện rủi ro hoạt động
Quy trình thu thập và xử lý sự kiện rủi ro hoạt động nhằm quy định thống nhất cách thức, trình tự, thủ tục báo cáo các sự kiện RRHĐ phát sinh tại các NHTM; các cá nhân/đơn vị tham gia vào quy trình; các bước thực hiện; ngưỡng báo cáo và xếp hạng rủi ro của sự kiện rủi ro hoạt động được phát hiện... Quy trình này nhằm nhận dạng, phát hiện rủi ro hoạt động phát sinh hoặc đang tồn tại trong hệ thống các NHTM, từ đó phân tích, đánh giá, giám sát và kiểm soát các rủi ro hoạt động; cung cấp các thông tin hữu ích, cách thức phân tích nguyên nhân sự kiện RRHĐ phát sinh nhằm hoàn thiện môi trường kiểm soát, giảm tần suất và mức độ tác động của các sự kiện RRHĐ. Nội dung bao gồm: 1) Trách nhiệm của các cá nhân/đơn vị tham gia vào quy trình; 2) Nguyên tắc thực hiện: nguyên tắc ghi nhận sự
kiện RRHĐ; nguyên tắc báo cáo; 3) Hướng dẫn phân loại sự kiện RRHĐ, xếp hạng rủi ro; 4) Lưu các bước của quy trình.
4.2.6.2. Quy trình tự đánh giá rủi ro và chốt kiểm toán
Các NHTM trong thời gian tới cần phát triển chương trình tự đánh giá rủi ro và chốt kiểm soát để nhận biết sớm, đánh giá các rủi ro hiện tại, các rủi ro tiềm tàng và có các biện pháp kiểm soát, giảm thiểu rủi ro kịp thời, hiệu quả. Kết quả tự đánh giá rủi ro và chốt kiểm soát là cơ sở để ngân hàng có các biện pháp ứng xử với RRHĐ, đánh giá tốt hơn khả năng có thể chấp nhận rủi ro đã được nhận dạng.
Định kỳ hoặc khi cần thiết, các đơn vị thực hiện chương trình tự đánh giá rủi ro và chốt kiểm soát theo các quy định, hướng dẫn của ngân hàng. Sau đó KSRR tổng hợp kết quả tự đánh giá và báo cáo cho Hội đồng quản trị, Ủy ban QTRR, Ban Điều hành.
Quy trình tự đánh giá rủi ro và chốt kiểm toán quy định một cách thống nhất trình tự thủ tục, phương pháp tiến hành các công việc của quá trình nhận diện, đo lường, đánh giá và báo cáo rủi ro hoạt động tại các NHTM và trách nhiệm của các bên liên quan nhằm mục đích: i) Đảm bảo đánh giá được các RRHĐ trọng yếu có thể xảy ra trong quá trình hoạt động của đơn vị; ii) Đảm bảo các cá nhân tham gia vào quá trình vận hành các nghiệp vụ hiểu rõ về các rủi ro có thể xảy ra tại đơn vị;
iii) Định hướng cho công tác quản lý RRHĐ, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu có mức rủi ro cao; iiii) Xây dựng cơ sở dữ liệu danh mục các loại rủi ro theo từng đơn vị với mức độ rủi ro theo đánh giá của chính đơn vị đó.
4.2.6.3. Thiết lập công cụ QTRR hoạt động đối với các sản phẩm mới
QTRR đối với sản phẩm mới bao gồm các quy định, quy trình để phản ánh các tiêu chí, định nghĩa sản phẩm mới và cơ chế phân cấp thẩm quyền phê duyệt. Các hoạt động liên quan đến sản phẩm mới phức tạp và quan trọng phải được Hội đồng quản trị và/hoặc Ban Điều hành và/hoặc Hội đồng sản phẩm phê duyệt.
Trước khi thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến sản phẩm mới các NHTM phải có kế hoạch kinh doanh cho sản phẩm mới. Kế hoạch này phải dựa trên việc phân tích, đánh giá rủi ro liên quan đến sản phẩm. Phân tích và đánh giá rủi ro được thể hiện bằng văn bản và tối thiểu bao gồm các thông tin sau: 1)Xây dựng, triển khai công cụ thanh tra việc triển khai tính toán vốn theo Basel II quy định tại Thông tư 41 (công cụ thanh tra) để hỗ trợ việc thanh tra, giám sát quy trình, kết quả tính vốn của các ngân hàng; 2) Các rủi ro trọng yếu phát sinh từ việc triển khai sản phẩm mới; 3)Tác động của việc triển khai sản phẩm mới và khả năng chịu
đựng rủi ro của các NHTM. Các NHTM chỉ cung cấp chính thức các sản phẩm mới khi đảm bảo các yêu cầu sau: i) Ban hành đầy đủ các quy trình nghiệp vụ có liên quan đến sản phẩm mới; ii) Nhận dạng, đo lường, đánh giá, theo dõi và kiểm soát các rủi ro trọng yếu phát sinh từ việc cung cấp sản phẩm mới.
4.2.6.4. Thiết lập công cụ QTRR hoạt động đối với hoạt động thuê ngoài
Các NHTM cần xây dựng quy trình quản lý hoạt động thuê ngoài để kiểm soát RRHĐ phát sinh từ hoạt động thuê ngoài bao gồm việc đánh giá năng lực các đối tác thuê ngoài hiện tại và trong tương lai nhằm đảm bảo quyền lợi của mình. Các đơn vị liên quan có trách nhiệm báo cáo định kỳ kết quả rà soát hoạt động thuê ngoài.
Trang bị công cụ giám sát để đánh giá, theo dõi tiến độ thu hẹp khoảng cách chênh lệnh (% chênh lệch) của các ngân hàng (công cụ giám sát) đối với các trụ cột của Basel II và đối với cơ sở dữ liệu và công nghệ thông tin,… của các ngân hàng; từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp.
Ngoài ra, các NHTM cần ban hành các quy trình khác như: quy trình xác định, theo dõi và báo cáo chỉ số rủi ro chính; quy trình quản lý và kiểm soát quy định/quy trình;... để quy định thống nhất về thủ tục, trình tự các bước... thực hiện các công cụ, chương trình QTRRHĐ.
4.2.6.5 Lựa chọn mô hình ST và phương thức kiểm tra ST của cơ quan giám sát Ngân hàng Nhà nước
Việc lựa chọn mô hình ST cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam tùy thuộc vào độ sẵn có và chất lượng của dữ liệu. Tuy nhiên, để có kết quả đánh giá chuẩn xác và mang tính tổng thể hơn cần kiểm tra chéo giữa các phương pháp với nhau, đồng thời sử dụng ST vĩ mô. Chẳng hạn, cần đối chiếu kết quả của phương pháp bottom-up và top-down nhằm kiểm tra hoặc điều chỉnh các kịch bản một cách hợp lý. Đối với ST kết hợp kinh tế vĩ mô và tài chính, chuỗi dữ liệu cần có trong khoảng thời gian ít nhất là 1 đến 2 chu kỳ kinh tế (khoảng trên 15 năm).
Trong ngắn hạn, ST đối với hệ thống tài chính nên được thực hiện cho hệ thống các NHTM trong nước theo phương pháp dựa trên cân đối tài khoản. Theo đó, các kịch bản giả định sẽ được đưa ra chủ yếu dựa trên yếu tố “chuyên gia” kết hợp với các thông lệ quốc tế, dữ liệu lịch sử trong những năm gần đây thay vì sử dụng mô hình ước lượng từ các dữ liệu lịch sử trong thời gian ít nhất từ 1-2 chu kỳ kinh tế. Cụ thể mô hình nên áp dụng như sau: