vốn tiền gửi loại nào ít nhất. Từ đó cho thấy sự phù hợp cân đối giữa các loại nguồn vốn tiền gửi trong tổng nguồn vốn tiền gửi ngân hàng định hướng đầu tư hoặc cho vay vào lĩnh vực nào, với quy mô tương ứng bao nhiêu thì cũng sẽ có kế hoạch xây dựng cơ cấu nguồn vốn tiền gửi tương ứng Sự biến đổi về cơ cấu nguồn vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Vì vậy xu hướng biến đổi cơ cấu huy động vốn tiền gửi phải đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn trong tương lai như cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Cơ cấu vốn tiền gửi có thể được xem xét theo các tiêu thức khác nhau như theo kỳ hạn, theo loại tiền, theo nhóm khách hàng…….
Số dư tiền gửi loại i
Tỷ trọng loại i huy động được =
Chi phí hoạt động huy động vốn
Tổng số dư VTG
Chi phí hoạt động huy động vốn bao gồm: Chi phí lãi suất và chi phí phi lãi suất.
Chi phí huy động vốn ảnh hưởng rất lớn tới các các loại hình doanh nghiệp nói chung cũng như kết quả hoạt động của ngân hàng nói riêng. Đối với các DN thì mục tiêu hàng đầu bao giờ cũng là: giảm thiểu chi phí và tối đa hoá doanh thu, từ đó lợi nhuận thu được mới cao.
Tổng chi phí HĐV từ tiền gửi KH
Chi phí HĐV TG bình quân =
Tổng vốn HĐV từ tiền gửi KH
Để mở rộng thị phần và huy động ngày càng nhiều nguồn vốn tiền gửi từ tổ chức kinh tế và dân cư, các ngân hàng cạnh tranh nhau về mọi mặt: công nghệ, chất lượng sản phẩm dịch vụ, địa điểm, cơ sở vật chất hạ tầng... Trong đó, yếu tố quan trọng cần phải kể đến chính là lãi suất huy động. Lãi suất huy động chính là công cụ quan trọng được các ngân hàng sử dụng nhằm thu hút khách hàng, gia tăng thị phần vốn trong nền kinh tế.
Lãi suất huy động bình quân
Lãi suất luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Các chủ thể đi vay của ngân hàng lại luôn muốn mức lãi suất thấp. Nhưng khách hàng gửi tiền tiết kiệm luốn muốn có một mức lãi suất cao ngoài mục đích an toàn. Công việc của ngân hàng là điều chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý đối với các bên mà vẫn đảm bảo lợi ích của mình. Chính vì vậy, các ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn có chi phí huy động bình quân nhỏ nhất và sử dụng vốn đó để cho vay với mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường.
Để đánh giá hiệu quả quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi suất cạnh tranh cho hoạt động huy động vốn, các ngân hàng thường tính lãi suất huy động bình quân:
Chi phí trả lãi bình quân |
Tổng vốn huy động bình quân |
Có thể bạn quan tâm!
- Huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Sông Nhuệ - 2
- Khái Niệm Huy Động Vốn Tiền Gửi Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Vai Trò Của Huy Động Vốn Tiền Gửi Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Tổng Quan Về Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Sông Nhuệ
- Thực Trạng Hoạt Động Huy Động Vốn Tiền Gửi Của Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Sông Nhuệ Giai Đoạn 2017 - 2019
- Lãi Suất Huy Động Tiền Gửi Tại Vietinbak Sông Nhuệ Giai Đoạn 2017-2019
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Lãi suất huy động bình quân càng thấp trong điều kiện vẫn đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu sử dụng vốn thì hiệu quả huy động vốn càng cao. Việc tính chi phí bình quân cho từng nguồn cụ thể cho phép nhà quản lý trả lời câu hỏi: Nguồn nào rẻ hơn, nên vận dụng lãi suất huy động như thế nào và thu nhập từ lãi suất tăng thêm có bù đắp được chi phí cho nguồn tăng thêm hay không? Để từ đó ngân hàng quyết định lựa chọn cơ cấu nguồn vốn của mình và đề ra các giải pháp huy động vốn thích hợp.
Trong điều kiện ngân hàng bị khống chế về lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời quy mô của các khoản mục chi phí trả lãi trong kỳ thì ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất danh nghĩa cao hơn hoặc thấp hơn lãi suất của các ngân hàng khác. Hoặc cũng có thể tạo ra lãi suất cạnh tranh bằng các phương pháp như trả lãi làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước. Đánh giá hiệu quả
của các phương pháp này ngân hàng thường căn cứ vào NEC (Net effective cost: lãi suất hiệu quả của mỗi nguồn tiền).
Bên cạnh chi phí chính của ngân hàng là lãi suất, trong quá trình huy động vốn còn có các chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn, chi phí dịch vụ quảng cáo… Tuy chi phí này chiếm tỷ trọng không cao nhưng tiết kiệm được sẽ gia tăng hiệu quả huy động vốn của ngân hàng.
1.3 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1 Yếu tố về môi trường
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng là nhóm yếu tố thuộc môi trường, bao gồm: môi trường chính trị, tình hình kinh tế xã hội trong và ngoài các ngân hàng.
- Môi trường chính trị, pháp lý: hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ nhưng một số luật liên quan chưa ban hành như luật bảo hiểm tiền gửi, luật thương phiếu. Sự bất ổn về chính trị làm giảm niềm tin của dân chúng vào ngân hàng, tâm lý sợ mất tiền cả vốn lẫn lời, trong khi đó từ phía các ngân hàng chưa đảm bảo chắc chắn cho các khoản vốn của khách hàng mình. Quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng được đảm bảo khi môi trường pháp lý có nhiều thuận lợi, được nhà nước cơ quan chức năng quyền lực tạo niềm tin cho người gửi tiền.
- Môi trường kinh tế: môi trường kinh tế là yếu tố tác động lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Môi trường kinh tế ổn định là điều kiến thiết yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn vào ngân hàng. Đối với Việt Nam, thu nhập quốc dân đầu người thấp so với các nước trong khu vực, dẫn tới lượng tiền nhàn rỗi còn ít.
- Môi trường xã hội: xã hội lành mạnh thì nhu cầu tiêu dùng, giải trí tăng lên, từ đó nhu cầu về hàng hóa dịch vụ tăng, người ta có xu hướng gửi tiền nhiều hơn. Khi xã hội trì trệ, người ta không có xu hướng gửi tiền mà còn có xu hướng rút tiền ra khỏi ngân hàng. Nếu lạm phát xuất hiện, kéo dài và tăng lên thì sẽ dẫn dến sự biến động mạnh về giá cả hàng hóa làm cho chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng lên, số người đến ngân hàng để rút tiền tăng lên. Khi có lạm phát cao sẽ dẫn đến sai lệch thông tin, giá cả biến động liên tục gây ra những khó khăn các quyết định liên quan đến cơ cấu tiêu dùng tiết kiệm và ảnh hưởng đến huy động vốn. Vì vậy để các ngân hàng hoạt động thuận lợi, nhà nước cần phải tạp lập môi trường xã hội ổn định, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường.
1.3.2 Yếu tố về chính sách, pháp luật của Nhà nước
Ngân hàng hoạt động trong điều kiện đất nước có môi trường pháp lý đầy đủ, chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc thực hiện công tác huy động vốn TG của mình. Môi trường pháp lý lành mạnh sẽ giúp hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn hơn, người dân cũng được bảo vệ quyền lợi tốt hơn, khả năng tiếp cận với ngân hàng cũng dễ dàng và an toàn hơn. M ặt khác chính bản thân ngân hàng cũng phải bảo đảm cho các hoạt động của mình nằm trong khuôn khổ pháp luật cho phép, như việc phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của ngân hàng trong việc giữ bí mật thông tin tài chính của người gửi tiền, giúp khách hàng tin tưởng hơn vào dịch vụ ngân hàng.
Trong việc huy động vốn của ngân hàng nói chung và huy động vốn TG nói riêng đều chịu sự quản lý điều hành của các chính sách tiền tệ do chính phủ và NHNN ban hành.
Chính sách thu nhập của chính phủ: trong những năm vừa qua chính phủ đã nhiều lần điều chỉnh về chính sách tiền lương, mức lương cơ bản được điều
chỉnh tăng, tạo thu nhập cho người dân tăng lên, tạo thu nhập ổn định cho người lao động thì người dân sẽ có thêm phần tiết kiệm để gửi vào ngân hàng.
Chính sách về lãi suất: nếu NHTW đưa ra một mức lãi suất cùng với biên độ dao động phù hợp với tình hình kinh tế thì các ngân hàng trên cơ sở đó sẽ đưa ra mức lãi suất linh hoạt hấp dẫn thu hút nhiều khách hàng hơn.
Chính sách tiết kiệm: khuyến khích các đơn vị kinh tế và tầng lớp dân cư thực hiện tiết kiệm tránh lãng phí, để dùng vốn nhàn rỗi đầu tư phát triển kinh tế.
Chính sách thuế: ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và tiết kiệm của dân cư, vì vậy ảnh hưởng đến lượng gửi tiền vào ngân hàng.
Chính sách đầu tư: chính phủ cần có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh tạo điều kiện để kinh tế phát triển, dân cư tăng cường tiết kiệm để đầu tư hơn, NHTM sẽ tăng cường hoạt động thu hút vốn hơn.
1.3.3 Yếu tố từ khách hàng
Một ngân hàng muốn đứng vững và hoạt động trong thị trường thì phải khơi tăng nguồn vốn. Khách hàng của ngân hàng là các tổ chức và cá nhân trong xã hội có mối quan hệ giao dịch với các ngân hàng. Đối với ngân hàng thì khách hàng là đối tác hoạt động chính thông qua việc tài trợ vốn cho các nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, đồng thời có thể thông qua đó để ngân hàng cung câp cá dịch vụ tài chính khác của mình
Ta được biết vốn trong dân cư được hình thành qua các nguồn thu nhập tiền công, tiền lương, thu nhập từ sản xuất kinh doanh nói chung, nguồn tích lũy, thu nhập từ cho, tặng, thừa kế. Chính từ đó mà họ gửi tiền phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Tâm lý thói quen
+ Nguồn tài chính, thu nhập của khách hàng
+ Phụ thuộc vào lợi ích
Tâm lý của khách hàng
Là một yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc gửi tiền vào Ngân hàng. Nếu khách hàng tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng an tâm hơn để tiền ở nhà thì việc thu hút vốn vào ngân hàng hiệu quả hơn. Ngược lại nếu khách hàng không tin tưởng vào ngân hàng thì họ bảo quản tài sản bằng cách an toàn của họ như: tích trữ bằng vàng, mua đất, hoặc ngoại tệ mạnh như đôla…
Cũng phải đề cập tới thói quen của khách hàng, họ có thói quen sử dụng dịch vụ của ngân hàng hay không? Chính sách chi trả lương qua hệ thống ngân hàng hay không? Khu mua sắm thanh toán bằng thẻ?
Yếu tố thu nhập dân cư
Khả năng huy động vốn của ngân hàng tỷ lệ thuận với thu nhập của dân cư, có nghĩa là thu nhập của dân cư càng cao thì tiền gửi tiết kiệm càng tăng. Tuy nhiên khối lượng tiền trong dân cư không thể xác định một cách dễ dàng. Do vậy, muốn dân chúng gửi tiền vào ngân hàng thì phải có chính sách lãi suất thích hợp cùng với sự hấp dẫn về các dịch vụ ngân hàng.
Yếu tố thời vụ tiêu dùng
Thời vụ tiêu dùng cũng có ảnh hưởng lớn đến tình hình huy động vốn tiền gửi tiết kiệm trong một thời gian nhất định nhưng thường có tính chu kỳ hơn. Như vào dịp Tết Nguyên đán thì người dân tiêu dùng nhiều hơn nên lượng tiền tiết kiệm giảm sút, thậm chí họ còn rút tiền đã gửi tiết kiệm để tiêu dùng sắm tết.
1.3.4 Yếu tố từ ngân hàng
Tất cả các nhà quản lý ngân hàng đến nhận thức được yếu tố thuộc về ngân hàng là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc huy động vốn.
- Chính sách lãi suất cạnh tranh
Người gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, song rõ ràng là nếu ngân hàng nào tạo ra được mức lãi suất cao hơn cho người gửi thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình hơn. Nhưng mức lãi suất đó
phải đảm bảo không quá cao so với các ngân hàng khác. Vì nếu quá cao tuy rằng đồng nghĩa với người gửi tiền nhận được nhiều lãi hơn, lượng khách hàng đến gửi tại ngân hàng đó cao hơn nhưng đồng thời cũng đẩy lãi suất cho vay lên cao, hạn chế hiệu quả cho vay làm khả năng sinh lời của ngân hàng thấp. Vì vậy, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể cho từng thời kỳ, Ngân hàng phải căn cứ vào tình hình kinh tế, vào chính sách tín dụng và phương hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra, còn có nhiều hình thức khác thu hút khách hàng đó là áp dụng phương thức trả lãi khác nhau như trả lãi nhiều kỳ hoặc trả lãi trước, lãi suất bậc thang.
- Chính sách khách hàng
Tùy từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng có chính sách khác nhau, có cách ứng xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, khách hàng giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm thì ngân hàng sẽ có một chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn của món vay, cũng như thực hiện việc xét thưởng đối tác. Từ đó Ngân hàng mới có khả năng thu hút khách hàng và tăng nhanh khả năng hoạt động vốn của mình. Để xây dựng được chiến lược khách hàng đúng đắn thì Ngân hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin của khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra một hệ thống chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn mong muốn.
- Uy tín của ngân hàng
Uy tín là tài sản vô hình của ngân hàng, cũng là tài sản quý trong công tác huy động vốn, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng, giúp ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp hơn) .
Khi người dân gửi tiền vào ngân hàng họ tin tưởng ngân hàng là nơi giữ tiền an toàn. Nhưng do nền kinh tế có biến động trong quá trình phát triển có thể xảy ra những biến động xấu và ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng tới tâm lý người dân. Chính vì vậy việc bảo hiểm tiền gửi là điều hết sức cần thiết bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng sẽ được bảo hiểm tiền gửi bằng Đồng Việt Nam theo quy định của Nhà nước, khi ngân hàng gặp phải rủi ro, không có khả năng thanh toán thì công ty Bảo hiểm sẽ thay ngân hàng trả nợ cho khách hàng. Điều đó làm tăng mức độ an toàn cho tiền gửi của khách hàng và cũng tăng uy tín của ngân hàng trong lòng người dân.
- Nguồn nhân lực
Ngành ngân hàng trong những năm trước đây đã phát triển về chiều rộng khá nhanh, thể hiện qua việc tăng số lượng chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp cả nước. Do đó, số lượng nhân viên ngân hàng phát triển đột biến. Bên cạnh đó, nhằm làm cho hệ thống tài chính vững mạnh hơn, việc tái cơ cấu, sáp nhập ngân hàng đã và đang diễn ra như một xu hướng, dẫn tới những biến động trong bộ máy nhân sự của các ngân hàng. Thời gian qua, về cơ bản đội ngũ nhân lực đã đáp ứng được sự phát triển của ngành ngân hàng, song chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn thấp. Hầu hết các NHTM quy mô trung bình trở xuống thiếu đội ngũ quản trị điều hành, lãnh đạo cấp chi nhánh, phòng giao dịch; trình độ chuyên môn, khả năng phân tích, độc lập xử lý các vấn đề thực tế không cao,… Đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp đi làm tại các ngân hàng còn “hổng” cả về kỹ năng (thái độ, kỹ năng làm việc nhóm, trình độ tiếng Anh, khả năng giao tiếp) và kiến thức (tài chính, ngân hàng) làm ảnh hưởng đến công việc chung của hệ thống cũng như công tác huy động vốn của chi nhánh.