phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng BPKCTT nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ có giá”.
2.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ KHI ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
2.3.1. Cơ sở pháp lý về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm là một biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT từ phía người có quyền yêu cầu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 BLTTDS, người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6,7,8,10 và 11 Điều 102 BLTTDS phải thực hiện biện pháp bảo đảm là gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng, nơi có trụ sở của Tòa án quyết định áp dụng BPKCTT trong thời hạn do Tòa án ấn định để đảm bảo nghĩa bồi thường thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây ra.
Như vậy, điều luật đã có sự phân biệt những trường hợp đương sự có yêu cầu ADBPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo đảm và những trường hợp không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Có thể thấy rằng các trường hợp đương sự phải thực hiện biện pháp bảo đảm là các trường hợp BPKCTT do họ yêu cầu có liên quan trực tiếp đến tài sản của người bị yêu cầu ADBPKCTT (đó là các biện pháp như kê biên, cấm chuyển dịch quyền về tài sản, cấm thay đổi hiện trạng tài sản…). Các biện pháp này có thể gây thiệt hại đến quyền lợi của người bị áp dụng BPKCTT, cho nên để đảm bảo sự chắc chắn từ phía người có quyền yêu cầu ADBPKCTT pháp luật quy định những người này phải thực hiện biện pháp bảo đảm nhằm ràng buộc trách nhiệm của họ đối với yêu cầu của mình và bảo vệ quyền lợi cho bên bị áp dụng BPKCTT trong trường hợp BPKCTT được áp dụng là không đúng.
Các quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam mặc dù thể hiện sự tiến bộ trong lập pháp nhưng còn
bộc lộ một số hạn chế, bất cập dẫn tới gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng, có thể kể đến một số quy định sau:
- Các quy định về giá trị của khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá mà… người yêu cầu áp dụng BPKCTT gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng để thực hiện biện pháp bảo đảm phải “tương đương” với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện là quy định chưa phù hợp và rất khó thực hiện trên thực tế. Bởi lẽ “nghĩa vụ về tài sản” ở đây theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/NQ – HĐTPTANDTC ngày 27/4/2005 chính là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người yêu cầu áp dụng BPKCTT nếu yêu cầu áp dụng đó là không đúng. Do đó, hai chữ “tương đương” do điều luật quy định sẽ được hiểu với nghĩa là ngang bằng, bằng nhau, mà điều này thì thực tiễn không thể xác định được, vì việc áp dụng BPKCTT được thực hiện trước, thiệt hại thực tế xảy ra sau, mọi sự tính toán thiệt hại phát sinh trên thực tế chỉ là suy đoán. Quy định này thực sự gây khó cho Thẩm phán, cũng như cho các đương sự trong việc dự tính thiệt hại phát sinh trên thực tế nếu như việc áp dụng BPKCTT không đúng gây ra, do đó đã làm chậm trễ việc áp dụng BPKCTT.
- Các quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm tại phiên tòa sơ thẩm: Nghị quyết 02/NQ – HĐTPTANDTC ngày 27/4/2005 có hướng dẫn về thời điểm thực hiện biện pháp bảo đảm tại phiên tòa tính từ lúc HĐXX ra quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm nhưng đương sự phải xuất trình được các tài liệu, chứng cứ về việc đã thực hiện xong các biện pháp bảo đảm trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Hướng dẫn nêu trên là không phù hợp với thực tiễn, bởi lẽ khoản tiền kim khí quý, đá quý hoặc các giấy tờ có giá khác đương sự phải gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng nơi Tòa án có trụ sở chứ không phải tại Tòa án. Do đó, việc thực hiện biện pháp bảo đảm tại ngân hàng nơi cách xa trụ sở Tòa án, hoặc vào lúc ngân hàng đông khách, hoặc các cán bộ ngân hàng đang bận việc… thì đương sự cũng không thể thực hiện được biện pháp bảo đảm ngay trong thời gian ngắn để có thể xuất trình các tài liệu, chứng cứ cho HĐXX trước khi HĐXX vào phòng nghị án.
- Về quy định thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ:
Có thể bạn quan tâm!
- Về Cơ Sở Xác Định Điều Kiện Áp Dụng Biện Pháp Cấm Chuyển Dịch Quyền Về Tài Sản Đối Với Tài Sản Đang Tranh Chấp
- Về Cơ Sở Xác Định Điều Kiện Áp Dụng Biện Pháp Phong Tỏa Tài Sản Tại Nơi Gửi Giữ
- Về Cơ Sở Xác Định Điều Kiện Áp Dụng Biện Pháp Niêm Phong Theo Quy Định Của Luật Sở Hữu Trí Tuệ Thì Khi Có Căn Cứ Cho Rằng, Các
- Thực Tiễn Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Giải Quyết Các Vụ Án Dân Sự Tại Tòa Án Cấp Sơ Thẩm
- Về Những Hạn Chế, Bất Cập Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Giải Quyết Các Vụ Án Dân Sự Tại Tòa Án Cấp Sơ Thẩm
- Kiến Nghị Về Áp Dụng Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời Trong Việc Giải Quyết Các Vụ Án Dân Sự Tại Tòa Án Cấp Sơ Thẩm
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Nhằm tạo điều kiện tối đa cho các đương sự được thực hiện các quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, Bộ luật TTDS cũng như Nghị quyết 02/NQ – HĐTP TANDTC ngày 27/4/2005 đều có quy định về việc đương sự có quyền thực hiện biện pháp bảo đảm cả vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ. Quy định nêu trên chưa thực sự phát huy được hiệu quả trên thực tế. Bởi lẽ, Tòa án hiện nay chỉ làm việc 05 ngày/tuần và nghỉ vào ngày thứ 7 và ngày chủ nhật và hiện tại không có quy định về việc Thẩm phán hay người có thẩm quyền phải trực vào các ngày nghỉ nêu trên. Do đó, nếu đương sự có muốn thực biện pháp bảo đảm thì cũng không thực hiện được.
Thiết nghĩ, cần quy định bổ sung về việc bố trí Thẩm phán hoặc người có thẩm quyền trực vào những ngày nghỉ, ngày lễ để tiếp đương sự và thực hiện các thủ tục áp dụng BPKCTT theo quy định pháp luật. Mặt khác, đồng thời với quy định về việc làm thêm giờ thì cũng cần quy định về chế độ cho các Thẩm phán cũng như người có thẩm quyền khác khi được bố trí làm việc ngoài giờ.
2.3.2. Cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm bồi thường trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
BPKCTT được áp dụng chỉ là giải pháp tình thế, được sử dụng trong tình huống khẩn cấp nhưng nó không mang tính chất lâu dài, ổn định mà chỉ có tính chất tạm thời. Mặt khác, BPKCTT là do Thẩm phán hoặc các thành viên của Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định trong thời gian ngắn. Do vậy, có thể có những sai lầm khi nhận định và quyết định về biện pháp được áp dụng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của người bị áp dụng BPKCTT. Để ngăn ngừa người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT lạm dụng quyền yêu cầu, ngăn ngừa Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng, bảo vệ quyền, ích của người bị áp dụng BPKCTT, pháp luật hiện hành còn quy định trách nhiệm do việc áp dụng BPKCTT không đúng.
Việc quy định trách nhiệm do việc áp dụng BPKCTT không đúng trong BLTTDS là cần thiết nhằm buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT cũng như
Tòa án đều phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa ra yêu cầu hoặc áp dụng BPKCTT. Do đó, sẽ hạn chế được việc yêu cầu áp dụng BPKCTT một cách tùy tiện, không có căn cứ, giảm tải cho Tòa án trong quá trình giải quyết án, đồng thời với quy định về trách nhiệm bồi thường trong việc áp dụng BPKCTT, sẽ dễ dàng xác định được yêu cầu áp dụng BPKCTT nào của đương sự là thật sự có căn cứ và cần thiết.
Theo quy định tại Điều 101 BLTTDS thì: “Người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”. Như vậy, Điều luật đã quy định rò về trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng BPKCTT nếu gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”.
Về trách nhiệm bồi thường của Tòa án, Điều luật cũng quy định như sau: Tòa án áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT
Theo quy định tại Điều 119 BLTTDS, Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 BLTTDS (gồm các trường hợp như giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc người lao động tạm ứng tiền lương, tiền công…). Trong những trường hợp nêu trên, Tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Tòa án áp dụng BPKCTT khác với BPKCTT mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu
Chế định các BPKCTT trong BLTTDS, được xây dựng dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có quyền lựa chọn các
BPKCTT để bảo vệ quyền lợi của mình, quyền tự định đoạt của họ luôn được pháp luật tôn trọng. Vì vậy, khi đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số BPKCTT cụ thể để bảo vệ quyền lợi của họ, nhưng Tòa án đã áp dụng BPKCTT khác với BPKCTT mà đương sự yêu cầu là vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Do đó, nếu việc áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại thì Tòa án phải bồi thường. Ví dụ, nguyên đơn A yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M áp dụng BPKCTT là kê biên tài sản đối với bị đơn B, nhưng Tòa án nhân dân huyện M lại áp dụng BPKCTT là phong tỏa tài khoản của B, do đó đã gây thiệt hại cho B, trường hợp này Tòa án phải bồi thường.
- Tòa án áp dụng BPKCTT vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan, tổ chức:
Đây là trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT nhưng Tòa án đã áp dụng BPKCTT vượt quá yêu cầu của họ. Ví dụ, A nợ B số tiền là 300.000.000 đ, thời hạn 03 tháng sẽ trả. Hết 03 tháng, A không trả nợ được cho B số tiền nêu trên. B khởi kiện A ra Tòa để đòi nợ, cùng với việc nộp đơn khởi kiện, B còn đề nghị Tòa án áp dụng BPKCTT là phong tỏa tài khoản của A (tài sản B yêu cầu phong tỏa là 300.000.000 đ). Nhưng Tòa án đã phong tỏa tài khoản của A với số tiền là 500.000.000đ, gây thiệt hại cho A. Trường hợp này Tòa án phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phần phong tỏa vượt quá.
Có thể nói, các quy định về trách nhiệm do áp dụng BPKCTT không đúng là thực sự cần thiết và có ý nghĩa, bảo vệ quyền lợi của người bị áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên, quy định nêu trên cũng dẫn đến việc hạn chế đương sự đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT, đồng thời cũng gây tâm lý rụt dè, e ngại, sợ chịu trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình quyết định áp dụng BPKCTT, đây cũng chính là lý do tại sao số vụ án có áp dụng BPKCTT xảy ra trên thực tế rất ít.
Tham khảo pháp luật một số nước chúng nhận thấy có điểm khác nhau nhất định. Chẳng hạn, tại Điều 146 BLTTDS của Liên Bang Nga có quy định:
“Trong trường hợp đơn kiện không được chấp nhận thì sau khi có phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực, bị đơn có quyền đòi nguyên đơn bồi thường thiệt hại gây ra do việc áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của nguyên đơn”. Theo đó, nếu việc áp dụng BPKCTT không đúng thì trách nhiệm bồi thường chỉ đặt ra đối với người đã yêu cầu áp dụng BPKCTT mà không đặt ra đối với Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT. Về vấn đề này, Bộ luật TTDS của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quy định: “Trách nhiệm bồi thường chỉ đặt ra khi Tòa án áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản, không đặt ra đối với áp dụng BPKCTT và chỉ đặt ra đối với người đã đưa ra yêu cầu” (Điều 96).
2.3.3. Cơ sở pháp lý để thực hiện quyền khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Việc áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự không phải khi nào cũng đảm bảo tính đúng đắn, chính xác, vẫn có thể xảy ra những trường hợp BPKCTT được áp dụng không đúng do lỗi chủ quan hay khách quan của người Thẩm phán, gây thiệt hại cho đương sự. Do đó, pháp luật đã quy định về quyền khiếu nại của đương sự và Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đối với quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT.
Điều 124BLTTDS quy định: “Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc việc Thẩm phán không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT hoặc trả lời của Thẩm phán về việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT”.
Có thể nói rằng, các quy định về quyền khiếu nại, kiến nghị nêu trên là thật sự cần thiết tạo ra cơ chế để các chủ thể trong quan hệ PLDS bảo vệ được quyền lợi của mình, nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, các quy định về giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT còn bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nên chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Điều 125 BLTTDS quy định:
“1. Chánh án Tòa án phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy định tại Điều 124 của Bộ luật này trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.
2. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 125 BLTTDS thì quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 BLTTDS. Quy định này thực sự chưa bảo vệ được quyền lợi của các đương sự. Thực tiễn cho thấy, phần lớn các trường hợp đương sự có khiếu nại đến Chánh án về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của Thẩm phán thì đều nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án là “giữ nguyên quyết định của Thẩm phán đã ban hành quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT trước đó”. Điều này dẫn đến quyền lợi của các đương sự không được bảo đảm. Vì vậy, cần sửa lại điều luật theo hướng mở rộng phạm vi khiếu nại, kiến nghị cho đương sự và Viện kiểm sát, cho họ được quyền khiếu nại tới cấp cao hơn.
Ngoài ra, quá trình nghiên cứu các quy định pháp luật về cơ chế bảo đảm quyền lợi cho các đương sự, chúng tôi nhận thấy còn bộc lộ hạn hạn chế khác. Đó là hiện nay, khoản 2 Điều 123 BLTTDS chỉ quy định: “Tòa án phải cấp hoặc gửi quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ngay sau khi ra quyết định cho người yêu cầu, người bị áp dụng BPKCTT, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và VKS cùng cấp”. Điều luật không quy định trong trường hợp Tòa án không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT thì phải thông báo cho Viện kiểm sát biết. Do vậy, trường hợp Tòa án không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT mà gây thiệt hại cho đương sự thì Viện kiểm sát cũng không thể
biết được để thực hiện quyền kiến nghị của mình, không bảo đảm được quyền lợi của đương sự. Vì vậy, cần phải sửa đổi khoản 2 Điều 123 BLTTDS theo hướng đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho đương sự.