thị trường hiện nay.
Tất cả các hoạt động của NHTM đều có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các hoạt động trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.1.2 Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
a. Vốn tự có (vốn chủ sở hữu)
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn tự có của NHTM bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của NHTM theo quy định của NHNN. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong kết cấu tổng nguồn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Đây là nguồn vốn quan trọng vì nó là cơ sở để mở rộng quy mô hoạt động quyết định đến năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTM, là tài sản đảm bảo tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, theo đà phát triển của ngân hàng vốn này sẽ tăng dần về số tuyệt đối.
Quy mô vốn tự có là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng, đồng thời với chức năng bảo vệ, vốn tự có tham gia duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nếu xem xét vốn theo cách nhìn tĩnh tại, số dư vốn tự có được sử dụng để bù đắp rủi ro trong cho vay và đầu tư của ngân hàng. Theo kinh nghiệm nếu tỷ lệ vốn tự có so với tài sản có bằng 5%, thì tài sản có không được phép sụt giảm trên 5% về mặt giá trị trước khi ngân hàng này chính thức mất khả năng thanh toán. Vốn tự có cung cấp sự đảm bảo đối với khách hàng gửi tiền và những chủ nợ khác về khả năng tiếp tục tồn tại và phát triển của
ngân hàng trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt. Đồng thời, vốn tự có sẽ bù đắp các khoản lỗ cho đến khi thu nhập phát sinh và được giữ lại để tạo thành vốn bổ sung. Vốn tự có còn có vai trò quyết định mức cho vay tối đa với một khách hàng và mức cho vay tối đa với một nhóm khách hàng liên quan theo quy định của NHNN. Căn cứ vào hệ số vốn tự có so với tài sản có rủi ro chuyển đổi, có thể đánh giá và giám sát khả năng chi trả của ngân hàng (hệ số CAR), theo thông lệ quốc tế hệ số CAR phải đạt tối thiểu là 8%. Tuy nhiên, nếu các NHTM có cùng hệ số Cooke chưa hẳn là khả năng chi trả như nhau, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là kết cấu các loại tài sản có, nếu tập trung nhiều vào tài sản có mức độ rủi ro cao thì khả năng chi trả thấp và ngược lại. Vốn tự có bao gồm:
Vốn cấp 1: Bao gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận giữ lại. Vốn này tối thiểu phải bằng vốn pháp định theo quy định của pháp luật khi thành lập ngân hàng. Tùy theo từng loại hình ngân hàng vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn khác nhau. NHTM Nhà nước vốn tự có do ngân sách Nhà nước cấp, NHTM cổ phần vốn điều lệ do các cổ đông đóp góp. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử dụng chúng vào các mục đích như: Trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, sử dụng để cho vay, và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Sông Nhuệ - 1
- Huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Sông Nhuệ - 2
- Vai Trò Của Huy Động Vốn Tiền Gửi Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Tổng Quan Về Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam – Chi Nhánh Sông Nhuệ
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Vốn cấp 2: Vốn cấp 2 của NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian từ các nguồn sau: Một phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại theo quy định của pháp luật, một phần giá trị tăng của các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại theo quy định của pháp luật, các loại trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn
một số điều kiện nhất định, các công cụ nợ khác thỏa mãn một số điều kiện nhất định, dự phòng chung theo một tỷ lệ tối đa so với tổng tài sản có rủi ro.
Các tỷ lệ, điều kiện và các giới hạn khi xác định vốn cấp 1, vốn cấp 2 do NHNN quy định trong từng thời kỳ.
b. Vốn huy động
Vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được tư tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua hoạt động kinh doanh của mình. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu và ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả các gốc và lãi khi đến kỳ hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Vốn huy động thường xuyên biến động nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của NHTM, nó thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn huy động bao gồm:
- Vốn tiền gửi: Đây là nguồn vốn cơ bản, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. Vốn tiền gửi dùng để tài trợ cho các khoản cho vay, đầu tư tạo lợi nhuận để đảm bảo sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Vốn tiền gửi bao gồm: Tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
- Phát hành giấy tờ có giá: Thực chất là nghiệp vụ huy động vốn tiền tệ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.
c. Vốn đi vay
Là giá trị tiền tệ mà NHTM tạo lập được thông qua mối quan hệ giữa NHTM với tổ chức tín dụng khác hoặc với NHNN nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn. Nguồn vốn đi vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó là nguồn vốn cần thiết đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách bình thường. Thông thường, các NHTM sẽ đi vay dài hạn để bổ sung vốn để cho vay hoặc đầu tư, vay ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán hoặc bù đắp thiếu hụt dự trữ. Vốn đi vay bao gồm:
- Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM, NHNN là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, việc NHNN cho các NHTM vay vốn thực chất là tiếp vốn đưa vào lưu thông trong trường hợp thiếu vốn khả dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán và các nhu cầu khác. NHTM vay NHNN dưới hành thức chủ yếu là tái cấp vốn. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những giấy tờ có giá do Chính phủ hoặc chính do NHNN phát hành. Trong những trường hợp cần thiết, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
- Vay các tổ chức tín dụng khác: Là quá trình điều hòa nhu cầu vốn khả dụng giữa NHTM thừa dự trữ cho NHTM thiếu hụt dự trữ tại NHNN nhằm đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển liên tục trong hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế về dự trữ bắt buộc, an toàn vốn và có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHNN. Chi phí cho loại nguồn vốn này thường cao nên các ngân hàng chỉ sử dụng khi có nhu cầu cần thiết đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình
d. Các nguồn vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán. Trong quá trình thực hiện thanh toán các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này, nhập vào tải khoản khác chờ sử dụng nên cũng được coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu chi hộ khách hàng, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hoặc một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ
công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời số tiền còn dư trên tài khoản đó vào kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò trung gian, vừa tiến hành thu phí dịch vụ vừa thu lãi cho khách hàng vay, vì vậy trong công tác huy động vốn ngân hàng cần quan tâm chủ động nguồn vốn tìm kiếm nguồn vốn tài trợ ủy thác đầu tư để tăng thu nhập.
Trong quá trình hoạt động, tùy theo từng điều kiện hoàn cảnh khác nhau ngân hàng sử dụng linh hoạt từng loại nghiệp vụ trên để có nguồn vốn đáp ứng đủ nhu cầu cho nền kinh tế. Ngoài ra, đối với nghiệp vụ tài sản nợ nếu các NHTM quản trị tốt thì sẽ trường về vốn, thúc đẩy kinh doanh tăng trưởng, đồng thời giảm bớt những biến động của chu kỳ kinh doanh và sức ép mang tính thời vụ đối với hoạt động nhận tiền gửi và cho vay.
1.2 HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm huy động vốn tiền gửi tại ngân hàng thương mại
NHTM hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng tiền gửi huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt trong lĩ nh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các NHTM phải có những chính sách huy động tiền gửi hợp lý, nhằm từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng thương mại.
Huy động vốn tiền gửi của ngân hàng có thể hiểu đó là những công cụ, cách thức và phương pháp và chương trình cụ thể nhằm thu hút tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức vào ngân hàng trên cơ sở hai bên đều có lợi.
Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,
tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận”.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn tiền gửi của NHTM
Từ lâu tiền gửi là công cụ huy động vốn truyền thống của NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiền gửi chiếm tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi của NHTM. Tiền gửi bao gồm nhiều loại khác nhau, căn cứ vào các tiêu thức phân loại chủ yếu sau đây:
Phân loại theo kỳ hạn: Bao gồm huy động tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
- Huy động tiền gửi không kỳ hạn: Tiền gửi không kỳ hạn là tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi.
Tiền gửi không kỳ hạn là một sản phẩm mà ngân hàng cung ứng để giúp khách hàng có tiền nhàn rỗi muốn gửi vào ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lời nhưng không thiết lập được mục tiêu sử dụng trong tương lai. Khi mở tài khoản này khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền ra bất cứ lúc nào. Các giao dịch này không thường xuyên, chủ yếu là giao dịch gửi tiền và rút tiền trực tiếp. Do tính chất không ổn định nên lãi suất của tiền gửi này rất thấp.
Khi gửi tiền không kỳ hạn khách hàng sẽ được ngân hàng cấp một sổ tiền gửi. Sổ tiền gửi này sẽ phản ánh tất cả các giao dịch gửi tiền, rút tiền, số dư hiện có, tiền lãi được hưởng hoặc khách hàng được cấp một báo cáo tài khoản sau mỗi một giao dịch. Mỗi lần giao dịch, khách hàng phải xuất trình sổ và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền và rút tiền, chứ không thể thực hiện được giao dịch thanh toán như trong trường hợp tiền gửi thanh toán.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi.
Đây là khoản tiền tích lũy có tính chất như tiền gửi có kỳ hạn thông thường. Khách hàng gửi vì mục tiêu an toàn và sinh lời. Chủ yếu là những cá nhân có thu nhập ổn định và thường xuyên, thường là công chức, viên chức hoặc người đã nghỉ hưu. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút đối tượng khách hàng này. Khi gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn khách hàng cũng được giao giữ một sổ.
Kỳ hạn tiền gửi của khách hàng NHTM rất đa dạng, bao gồm nhiều mức kỳ hạn khác nhau như: kỳ hạn 10 ngày, 20 ngày, kỳ hạn theo tháng 1, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng,…và được trả lãi đầu kỳ, cuối kỳ, trả lãi hàng tháng.
Phân loại theo loại tiền: Bao gồm huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ
- Huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam: Là loại tiền gửi tiết kiệm bằng tiền Việt Nam Đồng gửi vào ngân hàng và hưởng lãi suất tiền Việt Nam được quy định tại thời điểm gửi tiền. Đây là loại chiếm tỷ trọng chủ yếu của vốn tiền gửi tiết kiệm của các NHTM ở Việt Nam.
- Huy động tiền gửi bằng ngoại tệ: Là loại tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ gửi vào ngân hàng và hưởng lãi suất ngoại tệ gửi. Các loại ngoại tệ như chủ yếu được huy động như: USD, EUR.
Nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng từ 80% - 90% và nó có tính biến động. Nhất là đối với loại tiền gửi không kỳ hạn và vốn ngắn hạn, hơn nữa vốn huy động chịu tác động lớn của thị trường và môi trường kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Vì
vậy Ngân hàng thương mại cần phải đi sâu tìm hiểu, phân tích nguồn hình thành vốn này, dự đoán trước tình hình cung cầu vốn để có đối sách phù hợp.
Ngoài ra, tùy theo mục đích nghiên cứu để phân loại, đánh giá sản phẩm hoặc báo cáo mà ngân hàng còn phân chia các hình thức huy động vốn theo các tiêu thức khác như:
- Phân loại theo chủ thể gửi tiền: Bao gồm huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân, khách hàng tổ chức và các định chế tài chính.
- Phân loại theo mục đích gửi tiền của khách hàng: Bao gồm Tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm…
+ Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Tiền gửi thanh toán có lãi suất thấp, khoản tiền gửi này được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là sản phẩm tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thoả thuận với ngân hàng. Các cá nhân gửi tiền có kỳ hạn tại các ngân hàng sẽ ký hợp đồng tiền gửi với ngân hàng với kỳ hạn từ 1 tuần trở lên. Phương thức trả lãi suất đối với tiền gửi có kỳ hạn có thể là trả trước, trả sau hoặc trả định kỳ. Mức lãi suất được tính trên cơ sở 1 năm (365 ngày). Nếu đáo hạn nhưng khách hàng không rút tiền thì số lãi sẽ nhập vào số tiền gốc và quay vòng sang kỳ hạn tiếp theo; còn nếu khách hàng rút trước hạn thì mức lãi suất sẽ tính theo tiền gửi không kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của khách hàng chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn - là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào song không được