Lý Luận Về Công Tác Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại

ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó là nguồn bổ sung thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN.

c. Vay trên thị trường vốn

Giống như các doanh nghiệp khác, các NHTM cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc được trả lãi suất cao hơn sẽ vay mượn được nhiều hơn.

1.1.5.4 Các nguồn vốn khác

Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ… Nhìn chung các nguồn khác trong NHTM là không lớn (chỉ trừ một số ngân hàng có nguồn uỷ thác của NHNN và các tổ chức quốc tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn vốn cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các dịch vụ khác.Các nguồn khác bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán…..

a. Nguồn uỷ thác

NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác trong các NHTM. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như ngân hàng, các nguồn tài chính của các tổ chức này đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành các nguồn uỷ thác, làm gia tăng vốn của ngân hàng.

b. Nguồn trong thanh toán

Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C… Những ngân hàng là

ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

c. Nguồn khác

Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả….

1.2 Lý luận về công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại

1.2.1 Khái niệm

- Nguồn vốn: là khối lượng tiền mà các NHTM đã huy động được có thể sử dụng vào mục đích cho vay, đầu tư và hoạt động dịch vụ khác của Ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.

- Hoạt động huy động vốn (còn gọi là hoạt động nhận tiền gửi): “là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.

1.2.2 Vai trò của công tác huy động vốn đối với ngân hàng thương mại

Huy động vốn đóng vai trò quan trọng và quyết định đến hoạt động của các NHTM, thể hiện qua một số mặt như sau:

1.2.2.1 Quyết định quy mô hoạt động của NHTM

Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, nguồn vốn chính là “tư liệu sản xuất”, là nguyên liệu chính tạo ra các sản phẩm Ngân hàng. Bản chất của NHTM là “đi vay để cho vay”, từ nguồn vốn huy động được, NHTM sẽ sử dụng để cấp tín dụng và cung ứng các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Nguồn vốn chi phối toàn toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM. Một Ngân hàng làm tốt công tác huy động vốn sẽ có nguồn vốn dồi dào, cơ cấu vốn ổn định, từ đó có sự chủ động trong việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, mở rộng quy mô cấp tín dụng (cả về phạm vi, khối lượng lẫn thời hạn tín dụng) cho nền kinh tế, thực hiện các hoạt động đầu tư mang lại tỷ suất sinh lợi cao cũng như sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ Ngân hàng. Ngược lại, nếu Ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, cơ cấu vốn thiếu tính hợp lý, chi phí vốn cao thì sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh

doanh của mình, nhất là không có điều kiện để mở rộng tín dụng theo nhu cầu của khách hàng và kỳ vọng của Ngân hàng, thậm chí buộc phải thu hẹp đầu tư đối với một số đối tượng khách hàng nếu không cân đối được nguồn vốn. Do tính chất quan trọng, cần thiết và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng nên công tác huy động vốn phải luôn được các NHTM đặt lên hàng đầu và có những giải pháp sáng tạo, linh hoạt, phù hợp nhằm tăng trưởng nguồn vốn huy động..

1.2.2.2. Tạo sự chủ động trong kinh doanh cho các NHTM

Để duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh, đòi hỏi NHTM phải có nguồn vốn vừa lớn (quy mô), vừa dài (ổn định) thì mới có thể chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Từ việc sử dụng nguồn vốn huy động để mở rộng cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, NHTM sẽ góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình, tăng thu nhập, đưa nền kinh tế ngày càng phát triển. Đồng thời, khi hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế có hiệu quả, ngoài việc trả nợ vay đến hạn, hoặc khách hàng sẽ có nhu cầu vay lớn hơn để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc nguồn tiền lãi thu được sẽ đầu tư vào Ngân hàng dưới dạng tích lũy, đầu tư, từ đó gia tăng được nguồn vốn cho NHTM. Như vậy, khi NHTM có nguồn vốn lớn và quản lý tốt nguồn vốn đó thì nguồn vốn sẽ có sự luân chuyển một cách nhịp nhàng, hiệu quả và ngày càng mở rộng hơn. Ngân hàng cũng sẽ chủ động hơn trong việc đa dạng hoá các hình thức và phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của Ngân hàng là an toàn và sinh lời.

1.2.2.3. Góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng thương mại

Để có thể thu hút khách hàng đến giao dịch gửi tiền, NHTM phải tạo được niềm tin đối với khách hàng cũng như thỏa mãn nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ mà khách hàng mong muốn. Nguồn vốn huy động dồi dào cũng góp phần củng cố thêm uy tín, vị thế của NHTM. Bên cạnh đó, uy tín, vị thế của Ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng. Khi NHTM có nguồn vốn lớn và cơ cấu vốn ổn định, ngân hàng sẽ chủ động chọn lựa, cung ứng vốn cho vay đối với các dự án, phương án trung, dài hạn có hiệu quả. Nguồn vốn khả dụng của NHTM càng

cao thì khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn vay và vốn thanh toán của Ngân hàng càng lớn,góp phần nâng cao vị thế, uy tín của NHTM.

1.2.2.4. Quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Nguồn vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng. Nếu Ngân hàng có nguồn vốn lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào các hoạt động khác như liên doanh liên kết, đầu tư trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ. Trong điều kiện cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt, ngân hàng nào có được nguồn vốn lớn sẽ có điều kiện chủ động trong hoạt động kinh doanh điều chỉnh các mức lãi suất cho vay cũng như các mức phí một cách hợp lý, giữ vững và thu hút được khách hàng.

1.2.3 Các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại

Nguồn vốn huy động thường chiếm tỷ trọng lớn (từ 80% trở lên) và đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nguồn vốn huy động của NHTM thường đa dạng, có thể phân loại theo các tiêu thức như sau:


Sơ đồ 1 1 Cơ cấu nguồn vốn phân theo các tiêu chí cụ thể Nguồn Trần Thị 1

Sơ đồ 1.1 Cơ cấu nguồn vốn phân theo các tiêu chí cụ thể

(Nguồn: Trần Thị Ngọc Hà, 2016, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Huế)

1.2.3.1 Theo thời gian huy động vốn

- Tiền gửi không kỳ hạn: là tiền gửi khách hàng có thể gửi và rút ra bất cứ lúc nào mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của ngân hàng. Loại tiền gửi này được thiết kế cho khách hàng cá nhân có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lời nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lời. Đối với ngân hàng, vì là loại tiền gửi này khách hàng muốn rút ra bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi . Vì vậy ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này.

- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với NH.

Đối với loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, người gửi có một số tiền nhàn rỗi trong thời gian dài, họ thường gửi theo hình thức này để hưởng lãi suất cao. Người gửi không thể sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại tiền gửi này song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên giữa các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất càng cao. Trong trường hợp rút trước hạn, khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, hoặc lãi suất theo thời hạn gửi thực tế tùy theo chính sách của NH trong từng thời kỳ.

Tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn có đặc điểm là sự ổn định tương đối cao do đó các NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn nhưng không được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Loại tiền gửi này có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi, do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn bẩy, là công cụ để thu hút nguồn vốn này.

1.2.3.2 Theo loại tiền huy động

- Tiền gửi bằng nội tệ: là các khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND), thông thường chiếm trên 80% tổng vốn huy động của các NHTM;

- Tiền gửi bằng ngoại tệ: là các khoản tiền gửi bằng các loại ngoại tệ mạnh như Đôla Mỹ (USD), Bảng Anh (GBP), Đồng tiền Châu Âu (EUR)…

1.2.3.3 Theo nhóm khách hàng huy động

- Nhóm khách hàng cá nhân: bao gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp dân cư như cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, nông dân.... Vì vậy để huy động các khoản tiền gửi tiết kiệm có tính ổn định cao từ nhóm khách hàng cá nhân, các NHTM phải có chính sách lãi suất phù hợp để thu hút. Bên cạnh đó các yếu tố uy tín, thương hiệu của Ngân hàng, sự thuận tiện trong giao dịch gửi tiền, rút tiền cũng là mối quan tâm của nhóm khách hàng cá nhân.

- Nhóm khách hàng tổ chức, doanh nghiệp: bao gồm các đơn vị của Nhà nước, các đơn vị của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp... Nhóm khách hàng này thường có nhu cầu mở tài khoản, gửi tiền vào Ngân hàng với mục đích sử dụng các dịch vụ qua Ngân hàng, nhất là dịch vụ thanh toán mua bán hàng hóa dịch vụ.

1.2.3.4 Theo loại hình huy động

- Tiền gửi tiết kiệm : bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cơ bản giống với tiền gửi không kỳ hạn (Người gửi tiền được quyền gửi vào, rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho Ngân hàng, được hưởng lãi suất không kỳ hạn đối với số tiền gửi), tuy nhiên sản phẩm này không được sử dụng để thanh toán. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn “được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền nhằm mục đích an toàn, sinh lợi và kế hoạch hóa được việc sử dụng số dư trên tài khoản tiền gửi”

- Giấy tờ có giá : là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa TCTD phát hành với người mua GTCG trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. TCTD được phát hành GTCG theo hình thức GTCG ghi danh và GTCG vô danh. TCTD phát hành quyết định phù hợp với lãi suất thị trường và quy định về lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động cho TCTD.

- Tiền gửi thanh toán: là khoản tiền gửi mà khách hàng là các tổ chức, cá nhân gửi vào Ngân hàng chủ yếu với mục đích thanh toán. Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán cho nền kinh tế, Ngân hàng tạo được một nguồn vốn từ hoạt động thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi chờ thanh toán… NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các TCTD khác, nhận vốn uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước…, có thể sử dụng tạm thời các khoản tiền này vào kinh doanh. Các khoản tiền gửi thanh toán một mặt làm phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng, tiết kiệm chi phí trong lưu thông, mặt khác kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp.

- Tiền gửi của các TCKT, tổ chức khác: là khoản tiền gửi của các tổ chức, đơn vị nhằm mục đích đầu tư để thu lãi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường đây là những khoản tiền gửi tương đối lớn, lãi suất đối với tiền gửi tổ chức thường nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

- Tiền gửi của các TCTD: thông thường các NHTM thiếu vốn sẽ nhận các khoản tiền gửi từ các NHTM thừa vốn để cân đối đáp ứng nhu cầu kinh doanh cũng như khả năng thanh khoản. Các NHTM thừa vốn thì đầu tư tiền gửi cho NHTM khác nhằm mục đích sinh lời và tiết giảm chi phí. Tùy theo từng giai đoạn mà NHNN có quy định cụ thể hoạt động và thời hạn cho vay, nhận tiền gửi lẫn nhau của các NHTM nhằm tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện kinh doanh vốn dễ dàng hơn và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản mà không cần phải nhờ sự hỗ trợ của NHNN.

1.2.3.5 Theo địa bàn huy động

- Khu vực thành thị: Là nguồn vốn huy động từ các chi nhánh NHTM đóng trên địa bàn các thành phố, thị xã, vùng đô thị lớn. Đây là khu vực có tiềm năng huy động nhiều món lớn do lượng dân cư đông, mức thu nhập tương đối cao và ổn định.

- Khu vực nông thôn: Là nguồn vốn huy động từ các chi nhánh NHTM đóng trên địa bàn vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, khách hàng chủ yếu là hộ sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp. Đây là địa bàn có nhiều tiềm năng để huy động vốn và phát triển các sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên thu nhập của các hộ thấp và khá bấp bênh do ảnh hưởng của thời tiết, giá cả... nên đa số chỉ là những món nhỏ, lẻ...

1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại

1.2.4.1 Các nhân tố khách quan

Nhóm nhân tố mang tích chất khách quan bao gồm:

Môi trường kinh tế: bao gồm lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát... Sự thay đổi trong chính sách tài chính, tiền tệ (lãi suất, dự trữ bắt buộc…) và các qui định của Chính phủ, của NHNN, sự phát triển của công nghệ ngân hàng và các dịch vụ như máy rút tiền tự động, ATM, thẻ tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử; sự cạnh tranh của các ngân hàng (nếu ngân hàng không có ưu thế cạnh tranh thì sẽ khó thành công trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng).

Môi trường chính trị, xã hội: sự ổn định về chính trị có tác động rất lớn vào tâm lý và niềm tin của người gửi tiền. Môi trường văn hoá: là các yếu tố quyết định đến các tập quán sinh hoạt và thói quen sử dụng tiền của người dân.Tuỳ theo đặc trưng văn hoá của mỗi quốc gia, người dân có tiền nhàn rỗi sẽ quyết định lựa chọn hình thức gửi tiền ở nhà, gửi vào ngân hàng hay đầu tư vào lĩnh vực khác. Thu nhập và năng lực tài chính của khách hàng càng cao, họ càng có điều kiện và nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng. Khi thu nhập tăng lên, khả năng tích lũy của khách hàng cũng sẽ cao hơn.

Hành lang pháp lý: có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của NHTM. Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động NH như: Luật các tổ chức tín dụng, luật Ngân hàng nhà nước …. Có những bộ luật có tác động gián tiếp như Luật đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM. Nó thể hiện ở các khía cạnh như:

- Mục tiêu của chính sách tiền tệ

- Việc sử dụng các cộng cụ chính sách tiền tệ

- Chính sách đầu tư của nhà nước

Thu nhập, tâm lý và thói quen người tiêu dùng của dân cư: thu nhập và năng lực tài chính của người dân càng cao, họ càng có điều kiện tích lũy tiết kiệm. Tuy nhiên lượng tiền đó được gửi vào NHTM hay đầu tư vào các tài sản khác (mua vàng,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/06/2022