Những Vấn Đề Lý Luận Về Chính Sách Marketing Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH MARKETING HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

Trong thời gian, có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề huy động vốn của NHTM nói chung và các giải pháp marketing trong hoạt động huy động vốn của các NHTM nói riêng dưới nhiều hình thức khác nhau như các bài báo, các luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học đề cập dưới các góc độ khác nhau. Một số công trình đã được công bố như:

Nguyễn Thị Minh Ngọc (2012) với nghiên cứu “Giải pháp marketing trong huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á” [10]. Trong Luận văn, tác giả đã phân tích thực trạng huy động tại ngân hàng Bắc Á, trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2011. Ở đề tài này tác giả phân tích tất cả các hình thức huy động vốn của ngân hàng, đối với tất cả các đối tượng, từ khách hàng cá nhân đến khách hàng doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng… Trong quá trình phân tích tình hình huy động tại ngân hàng Bắc Á, tác giả đã đưa ra được những hạn chế trong công tác huy động vốn tại ngân hàng. Các sản phẩm huy động vốn của ngân hàng Bắc Á vẫn chỉ dừng lại ở hình thức truyền thống, chưa có được sự khác biệt nổi trội so với các ngân hàng thương mại khác. Tính đa dạng và phong phú của các hình thức huy động vốn là một nhân tố không thể thiếu nhằm huy động vốn. Hoạt động Marketing của ngân hàng chưa thực sự được chú trọng. Các chương trình quảng cáo về ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài chưa phổ biến do đó có một số người dân vẫn chưa biết đến sự tồn tại của ngân hàng... Bên cạnh đó định vị về thương hiệu ngân hàng cũng là một yếu tố cần được ngân hàng quan tâm hơn nữa. Tác giả cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của ngân hàng Bắc Á trong thời gian tới như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt là khách hàng VIP; Xây dựng văn minh giao tiếp khách hàng; Phát triển công nghệ và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.


Trần Thị Thanh Hương (2013) với nghiên cứu “Giải pháp marketing trong huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long” trường Đại học Kinh tế Quốc Dân [7]. Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung nhất về hoạt động huy động vốn chung của Ngân hàng, từ đó đi phân tích thực trạng của chi nhánh Thăng Long và rút ra hạn chế còn tồn tại, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế đó.

Nguyễn Thị Lài (2014) với nghiên cứu đề tài “Huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đại Dương (OCEANBANK), chi nhánh tại Đà Nẵng” trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh [9]. Luận văn đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Đánh giá ưu nhược điểm trong hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đại Dương – chi nhánh Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đại Dương – Chi nhánh Đà Nẵng.

Phạm Thị Hồng Huệ (2015) với nghiên cứu “Đẩy mạnh hoạt động marketing tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hải Dương” trường Đại học Thương Mại [8]. Nội dung đề tài nghiên cứu: Thứ nhất, hệ thống hóa và phát triển hoàn chỉnh thêm những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hoạt động marketing ngân hàng, khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của marketing đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và Vietcombank Hải Dương nói riêng trong cơ chế thị trường; Thứ hai, phân tích và đánh giá toàn diện thực trạng hoạt động marketing Vietcombank Hải Dương hiện nay. Đặc biệt, tác giả cũng chỉ rò những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động này của Ngân hàng; Thứ ba, trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng hoạt động marketing tại Vietcombank Hải Dương hiện nay và dự báo về những biến đổi trong môi trường cạnh tranh cũng như khả năng nguồn lực của ngân hàng trong thời gian tới, tác giả đã đưa ra hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh hoạt động marketing tại Vietcombank Hải Dương trong giai đoạn 2016-2020.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu bàn về huy động vốn nói chung và huy

động vốn tại các Ngân hàng TMCP hay tại các Chi nhánh đều mang lại những kết quả

Hoàn thiện chính sách marketing trong công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Bình Định - 3


tích cực và khẳng định được tầm quan trọng, sự đóng góp to lớn của việc huy động vốn trong quá trình phát triển của mỗi ngân hàng là sự tất yếu. Các công trình này đều có giá trị cao trên đại bàn được nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào về giải pháp marketing huy động vốn tại Vietinbank chi nhánh Bình Định. Từ kết quả nghiên cứu của các công trình trên tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa trong xây dựng cơ sở lí luận cho hoạt động huy động vốn. Đồng thời là đối sách thực tiễn trong phân tích thực trạng vận dụng chính sách marketing huy động động vốn trong quá trình thực hiện luận văn của mình tại Vietinbank chi nhánh Bình Định nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian tới. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện giải pháp hoàn thiện chính sách marketing trong công tác huy động vốn tại Vietinbank chi nhánh Bình Định là hết sức cần thiết và không bị trùng lắp với các công trình đã công bố.

1.2. Lý luận và thực tiễn về huy động vốn của Ngân hàng thương mại

1.2.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại và vai trò huy động vốn của ngân

hàng thương mại

1.2.1.1. Khái niệm và nghiệp vụ ngân hàng thương mại

Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM): là một tổ chức kinh tế, hoạt

động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.

Theo quy định tại điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.

Nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. [18]

Trong đó:


* Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận. [18]

* Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. [18]

- Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. [18]

- Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. [18]

Nguồn vốn Ngân hàng thương mại huy động được chủ yếu được đem cho vay và tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Theo truyền thống, nghiệp vụ này được coi là một hoạt động quan trọng bậc nhất đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là một nghiệp vụ mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng thương mại, vì vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, các ngân hàng thương mại đang mở rộng các dịch vụ khác nhằm phân tán rủi ro, đa dạng nguồn thu nhập. Các sản phẩm gắn liền với hoạt động tín dụng bao gồm: cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng, đầu tư vào giấy tờ có giá, góp vốn liên doanh liên kết …

* Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. [18]

Trong nền kinh tế hiện đại, yêu cầu về các sản phẩm tài chính ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Do vậy, xuất hiện một xu hướng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng một cách tốt nhất, đang dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiến tới


giảm dần sự phụ thuộc thu nhập của ngân hàng vào thu nhập từ hoạt động tín dụng. Dịch vụ ngân hàng khác bao gồm: dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tư vấn tài chính…

1.2.1.2. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại

Vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, gồm: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay, nguồn vốn khác. [5]

- Vốn chủ sở hữu: bao gồm vốn điều lệ, quỹ bổ sung vốn điều lệ và các quỹ của ngân hàng. Theo quy định của pháp luật, các ngân hàng phải đảm bảo mức vốn điều lệ tối thiểu (vốn pháp định) để được thành lập và hoạt động (Quy định hiện hành đối với NHTM là 3.000 tỷ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD), chiếm khoảng 5% nguồn vốn hoạt động nhưng khá ổn định, thường được sử dụng để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, tài sản cố định phục vụ cho hoạt đông của ngân hàng. [14]

- Vốn huy động: Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn hoạt động của mỗi NHTM, thông thường chiếm từ 80% - 90%. Nguồn vốn này được huy động từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước gửi tiền tại NHTM với nhiều hình thức khác nhau, mức lãi suất khác nhau và đồng tiền khác nhau.

- Nguồn vốn đi vay: Gồm vay ngân hàng Trung ương (NHNN), vay các tổ chức tín dụng, vay các định chế tài chính khác. Thông thường các NHTM chỉ sử dụng nguồn vốn này trong ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán, bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về nguồn vốn ngắn hạn trong lúc các ngân hàng khác đang tạm thời dư thừa nguồn vốn. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ và không ổn định.

- Nguồn vốn khác: Gồm nguồn vốn điều chuyển, vốn tài trợ, ủy thác đầu tư. Vốn điều chuyển nội bộ xuất phát từ tính không đồng đều giữa các chi nhánh trong hệ thống NHTM. Trong mỗi thời điểm, luôn có tình trạng ngân hàng thừa vốn, ngân hàng thiếu vốn phụ thuộc chu kỳ kinh doanh, vào môi trường kinh doanh của ngân hàng. Nhiệm vụ của hội sở chính NHTM là điều hòa nguồn vốn đó trong nội bộ hệ thống sao cho mang lại hiệu qủa cao nhất.


1.2.1.3. Vai trò của nguồn vốn huy động vốn đối với NHTM

Để hoạt động kinh doanh, đầu tiên mỗi doanh nghiệp cần phải có đó là vốn để mua tư liệu sản xuất sản xuất ra sản phẩm, mua hàng hóa để bán lại kiếm lời. NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng kinh doanh một thứ hàng hóa đắc biệt đó là tiền. Vì vậy, với NHTM vốn vừa là vốn tài chính theo đúng nghĩa, vừa là nguyên liệu chính để tạo ra các sản phẩm dịch vụ của mình. Theo đó, huy động vốn chính là việc mua nguyên liệu của NHTM, và với tỷ trọng trên 80%, nguồn vốn huy động có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của mỗi ngân hàng. Nói cách khác, hoạt động của mỗi ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn huy động mà họ có được. Thể hiện:

Nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại sẽ quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Nguồn vốn lớn sẽ giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng cả về mức cho vay cũng như đối tượng khách hàng vay. Thông thường khách hàng vay ở ngân hàng nào thì sẽ sử dụng dịch vụ của ngân hàng đó để thuận lợi trong giao dịch cũng như thể hiện thiện chí hợp tác, theo đó ngân hàng càng có nhiều vốn sẽ càng có nhiều khách hàng vay vốn và sử dụng các dịch vụ tài chính khác liên quan và ngược lại, nguồn vốn ít thì sẽ hạn chế quy mô tín dụng, hạn chế số lượng khách hàng, hạn chế việc cung ứng các dịch vụ tài chính. Bên cạnh đó, sự hạn hẹp về nguồn vốn cũng khiến các ngân hàng kém nhạy bén đối với sự biến động lãi suất, một yếu tố mà khách hàng luôn quan tâm.

Thứ hai, nguồn vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh. Bên cạnh vốn chủ sở hữu, nguồn vốn huy động có tính ổn định khá cao, giúp NHTM chủ động đưa ra các quyết định kinh doanh phù hợp, kịp thời; chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay.

Thứ ba, nguồn vốn huy động góp phần quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Quy mô ngân hàng là một tiêu chí đo lường uy tín ngân hàng của khách hàng, bởi sự tin tưởng vào khả năng chi trả, vào khả năng ứng phó rủi ro trên nhiều phương diện – Đây là vấn đề đầu tiên mà khách hàng xem xét khi quyết định gửi tiền, sử dụng


các dịch vụ của ngân hàng. Một NHTM có nguồn vốn huy động ổn định, chi phí thấp có thể chủ động điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, bởi khách hàng luôn tìm đến những ngân hàng có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu vốn, giá rẻ, dịch vụ tiện ích, đa dạng.

Ngoài ra, ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên kết, đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ… Những hoạt động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng.

Nhận thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên từng Ngân hàng phải hoạch định được chiến lược huy động vốn cho đơn vị mình nhằm chủ động tạo lập được nguồn vốn ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình- Đó là yếu tố đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.

1.2.1.4. Các hình thức huy động vốn của NHTM

Huy động vốn là việc ngân hàng nhận tiền gửi của những người có nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi - gửi tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hoặc là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng, chính là việc họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và số tiền mà ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Ngân hàng huy động vốn thông qua các hình thức sau:

Huy động tiền gửi từ dân cư

Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Ở các nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.Đa phần mỗi cá nhân trong những khoảng thời gian nhất định có những khoản tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng, những khoản tiền tiết kiệm, cất trữ dự phòng cho những nhu cầu trong tương lai và phòng ngừa những rủi ro bất khả kháng. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.

Đời sống xã hội càng phát triển thì các khoản dự phòng càng tăng lên và họ


càng mong muốn làm sao những đồng tiền nhàn rỗi, cất trữ đó vừa được bảo toàn, vừa sinh lời tối đa. Nắm bắt được tâm lý đó, các ngân hàng luôn hướng tới đối tượng này để khai thác tới mức cao nhất nguồn vốn này.

Để thu hút khách hàng gửi tiết kiệm, bên cạnh tiết kiệm truyền thống, các NHTM còn áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và nguyên tắc: kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Đồng thời, không ngừng nâng cao các dịch vụ tiện ích cho người gửi tiết kiệm.

Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội luôn có một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong ngắn hạn được các đơn vị gửi vào ngân hàng. Tùy vào tính chất khoản vốn mà các doanh nghiệp, tổ chức này có thể gửi có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn vào ngân hàng, trong đó đa phần là tiền gửi thanh toán không kỳ hạn bởi tính linh hoạt trong chu chuyển vốn của các doanh nghiệp. Tuy không ổn định nhưng khi huy động nguồn vốn này, ngân hàng được hưởng lợi vì lãi suất thấp lại kèm thêm thu phí chuyển tiền và dịch vụ khác, vì vậy nó khá quan trọng đối với ngân hàng.

Bên cạnh đó cũng có loại tiền gửi có kỳ hạn, do sự thoả thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút vốn. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi do đó nó rất nhạy cảm với lãi suất. Mức lãi suất phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền, quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm huy động.

Tóm lại, nguồn vốn huy động có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. Thông thường nguồn vốn này phụ thuộc 3 yếu tố chính: lãi suất huy động vốn động của mỗi ngân hàng; lãi suất của các loại hình đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu và thu nhập của khách hàng, trong đó yếu tố lãi suất huy động là yếu tố khách hàng quan tâm nhất. Vì thế việc làm sao để thu hút được nhiều vốn và kinh doanh có lãi luôn là vấn đề đặt ra cho mỗi ngân hàng thương mại, và nhiệm vụ đó thuộc về marketing.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí