Tuy nhiên, hiện nay mặc dù ở Việt Nam Agribank là ngân hàng thương mại có tổng tài sản lớn nhất, nhưng cũng chỉ đạt giá trị khoảng 35 tỷ USD. Như vậy nếu so sánh quy mô về tài sản thì hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn khá nhỏ bé so với hệ thống NHTM quốc tế. (Xem phụ lục 3)
Vì vậy, các NHTM Việt Nam cần tiếp tục tăng quy mô tài sản ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hội nhập quốc tế. Để thực hiện được điều đó, các NHTM cần phải từng bước tăng vốn điều lệ. Dưới áp lực tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như đáp ứng yêu cầu theo quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì đến năm 2010, vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng thương mại phải đạt
3.000 tỷ VND. Đến nay, các ngân hàng đã thực hiện xong quy định vốn pháp định tối thiểu, trong đó có NHTM đã được cổ phần hóa và có vốn góp của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chiếm tới 20-30% như Vietinbank, Vietcombank. Tuy nhiên, nếu so sánh Vietinbank giữ vị trí thứ nhất với số vốn điều lệ (trị giá 32.661 tỷ VND) tại VN với các NHTM tại các quốc gia trong khu vực thì có thể thấy rõ quy mô nhỏ bé của hệ thống NHTM Việt Nam.
Bảng 3.2: Vốn điều lệ của Vietinbank và một số ngân hàng trong khu vực năm 2012
Ngân hàng | Quốc gia | Giá trị cổ phần hóa (tỷ USD) | |
1 | ICBC | Trung Quốc | 237.3 |
2 | China Construction Bank | Trung Quốc | 202 |
3 | DBS Group | Singapore | 30.7 |
4 | UOB (United Overseas Bank) | Singapore | 25.1 |
5 | Maybank | Malaysia | 24.3 |
6 | Siam Commercial Bank | Thái Lan | 21.5 |
7 | Vietinbank | Việt Nam | 2.4 |
Có thể bạn quan tâm!
- C Ơ S Ở D Ữ Li Ệ U Và Ph Ươ Ng Pháp Đị Nh L Ượ Ng
- Đố I Chi Ế U K Ế T Qu Ả Phân Tích Mô Hình V Ớ I N Ộ I Dung Đ Ánh Giá V Ề S Ự Bi Ế N Độ Ng Và Th Ự C Tr Ạ Ng Ho Ạ T Độ Ng Đầ U T Ư Kinh Doanh Trái
- D Ự Báo Và Đị Nh H Ướ Ng Đố I V Ớ I N Ề N Kinh T Ế Và Th Ị Tr Ườ Ng Trái Phi Ế U Vi Ệ T Nam Đế N N Ă M 2020
- Gi Ả I Pháp V Ề Qu Ả N Tr Ị R Ủ I Ro Ho Ạ T Độ Ng Đầ U T Ư Kinh Doanh Trái Phi Ế U
- Ki Ế N Ngh Ị V Ớ I Nhnn, Các Ban Ngành Và Các T Ổ Ch Ứ C Khác Có Liên Quan
- Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
Nguồn: Tạp chí Forbes 2012
Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam có thể tăng tổng tài sản trên cơ sở tăng các nguồn vốn huy động từ dân cư, nền kinh tế. Tuy nhiên, các hình thức tăng tổng
tài sản ngân hàng nên được thực hiện một cách thực chất, chứ không phải tăng “ảo” bằng cách sử dụng các phương pháp kỹ thuật như cho vay đối ứng lẫn nhau giữa các NHTM trên thị trường II, hay việc các cổ đông hiện hữu vay tiền từ ngân hàng này để góp vốn vào ngân hàng khác dựa vào các cấu trúc sở hữu chéo. Các NHTM Việt nam cần sớm xây dựng lộ trình tăng tổng tài sản cho phù hợp với điều hiện hoàn cảnh thực tế tại VN, cũng như đảm bảo cho các NHTM nâng cao sức cạnh tranh và chủ động hội nhập trong khu vực và thế giới.
Đồng thời trên cơ sở đó, các nhà quản trị NHTM cần thiết phải xây dựng được tầm nhìn và xây dựng chiến lược đúng đắn về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu tại các NHTM trong chiến lược kinh doanh chung trong giai đoạn hiện nay đến 2020. Cụ thể:
- Từng ngân hàng cần duy trì quy mô hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu (tỷ trọng tối thiểu khoảng 15%-20%) trong tổng tài sản trên cơ sở mở rộng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu một cách vững chắc, an toàn, bền vững và phù hợp với việc cân đối nguồn vốn để trực tiếp cho vay nền kinh tế. Chiến lược này cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng đã và đang phát triển của hệ thống NHTM hiện đại trên thế giới.
- Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu phải phù hợp với đặc điểm và điều kiện của từng NHTM Việt Nam. Chính sách danh mục đầu tư phải gắn liền với chính sách quản lý tài sản Nợ-Có của các ngân hàng này; đa dạng hóa và có cơ cấu hợp lý giữa các loại trái phiếu. Bên cạnh đó, các ngân hàng có thể mở rộng hoạt động này trên cơ sở tăng dần tỷ trọng của các loại trái phiếu do các doanh nghiệp có mức xếp hạng tín nhiệm cao, lãi suất hấp dẫn phát hành.
3.3.1.2. Nâng cao nhận thức của Ban quản trị ngân hàng về vai trò và vị trí của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu
Trong thời gian qua, các NHTM vẫn có xu hướng tập trung phát triển các hoạt động ngân hàng truyền thống như hoạt động tín dụng, đồng thời chưa thực sự quan tâm đến các hoạt động đầu tư kinh doanh sinh lời như hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. Do đó, quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM thường duy trì ở tỷ lệ thấp, không gắn liền với các chiến lược hoạt động cụ thể và
không được duy trì ở mức phù hợp như các NHTM hiện đại trên thế giới đang áp dụng. Như vậy đối với từng ngân hàng, trước hết Ban quản trị cần phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vị trí và vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu trong chiến lược hoạt động và phát triển chung của ngân hàng. Cụ thể, hoạt động đầu tư này không chỉ nhằm khai thác nguồn vốn nhàn rỗi - là nguồn vốn dư thừa sau khi đã sử dụng để cân đối cho vay nền kinh tế và mang lại thu nhập chính cho ngân hàng, mà còn với vai trò là một công cụ để sử dụng trong quản lý tài sản Nợ - Có, cơ cấu lại Bảng tổng kết tài sản và cấu trúc lại danh mục tài sản sinh lời. Từ đó, ngân hàng sẽ thực hiện những chiến lược phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh phù hợp hơn với xu thế hiện nay, trong đó có sự tăng trưởng về quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu hơn so với hiện nay.
3.3.2. Giải pháp nhằm tăng tỷ suất sinh lời hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trên cơ sở phân tích mô hình đo lường tác động của các yếu tố đến sự phát triển của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM tại mục 2.2.3 luận án đã chỉ ra rằng các nhân tố như tỷ lệ sở hữu Nhà nước hoặc tỷ lệ nợ xấu từ hoạt động tín dụng có mối quan hệ ngược chiều với tỷ suất sinh lời của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu, tuy nhiên yếu tố tỷ lệ sở hữu nước ngoài lại có quan hệ cùng chiều với tỷ suất sinh lời này. Hay nói cách khác, nếu ngân hàng có sự thay đổi cơ cấu sở hữu theo hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu Nhà nước và tăng dần tỷ lệ sở hữu nước ngoài, đồng thời giảm tỷ lệ nợ xấu từ hoạt động tín dụng thì sẽ góp phần làm tăng tỷ suất sinh lời đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu.
3.3.2.1. Giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước, tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong cơ cấu sở hữu tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Việc cải cách các NHTM Việt Nam được đánh giá là điều kiện quan trọng để tạo ra một hệ thống tài chính ngân hàng mạnh với sân chơi bình đẳng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc cải cách các ngân hàng này cần phải thực hiện như thế nào để đạt được mục tiêu và giảm thiểu những tác động tiêu cực một cách tối đa.
Để đẩy nhanh và đảm bảo hiệu quả của việc cổ phần hóa các NHTM hiện nay là tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tham gia của nước ngoài có thể giúp phát triển một hệ thống tài chính
mạnh và hiệu quả hơn (Claessens and Jansen 2000; IMF 2000). Việc tham gia của các ngân hàng nước ngoài sẽ thúc đẩy quá trình cải cách các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước (Jenny & Bob 2005) [7].
Hiện nay căn cứ nội dung Nghị quyết số 15/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại DN đã nêu rõ: đối với các NHTMCP Nhà nước sẽ duy trì tỷ lệ sở hữu ở mức không thấp hơn 65% vốn điều lệ. Mặt khác,theo Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 18/6/2014 có quy định tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước đối với các NHTM cổ phần nhà nước sẽ từ 65% đến 75% tổng số cổ phần tại các ngân hàng, tổ chức tài chính. Bên cạnh đó, quy định hiện nay cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các NHTM Việt Nam nói chung với tỷ lệ lớn hơn mức trần 30% vốn điều lệ của một NHTM. Trên cơ sở đó, các NHTM cần giảm tỷ trọng sở hữu của Nhà nước, đồng thời tăng tỷ trọng sở hữu nước ngoài trong cơ cấu sở hữu ngân hàng. Hay nói cách khác, trong quá trình hội nhập, các cam kết diễn ra mạnh mẽ, nhiều hơn, ở mức cao hơn, đòi hỏi các NHTM cần có những điều chỉnh sao cho phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế cũng như tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và tăng tính tự chủ hơn nữa của doanh nghiệp trên cơ sở giảm dần tỷ trọng sở hữu nhà nước, tăng dần tỷ trọng sở hữu nước ngoài. Cụ thể, các giải pháp đưa ra như sau:
- Xây dựng lộ trình cụ thể và đẩy nhanh quá trình thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng, nâng mức sở hữu của nước ngoài đến mức tối đa theo quy định. Đặc biệt cần nhanh chóng giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các Ngân hàng thương mại có tỷ lệ sở hữu Nhà nước luôn ở mức rất cao (trên 90%) như BIDV và Agribank.
- Các nhà quản trị ngân hàng cần loại bỏ quan điểm “mất quyền làm chủ” nếu tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Quan điểm này là không phù hợp với xu hướng hiện nay khi các ngân hàng cần vốn nhưng không muốn bán tỷ lệ cao cho nhà đầu tư nước ngoài thì rất khó thu hút được nguồn lực, giảm năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Nhu cầu tăng vốn trong giai đoạn 2015-2018 rất cao bởi đây là thời điểm ngân hàng đẩy mạnh dự phòng và sẽ cần nhiều vốn hơn để có thể hoạt động
ổn định mà vẫn đáp ứng các quy định về tỷ lệ an toàn vốn (CAR).
- Bên cạnh đó, nhằm thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến việc góp vốn, mua cổ phần từ các NHTM Việt Nam, các NHTM cần tăng cường công tác tuyên truyền, công khai minh bạch các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động bao gồm tình hình nợ xấu, tình hình tài chính, quá trình tái cấu trúc v.v. Hoặc các NHTM Việt Nam cần chấp nhận sự kiểm toán độc lập của các công ty kiểm toán quốc tế có uy tín. Các nhà đầu tư nước ngoài không thể tăng tỷ trọng đầu tư của mình đối với các ngân hàng mà họ không nắm rõ hoạt động, tình trạng tài chính tốt hay xấu.
Như vậy, việc giảm tỷ trọng sở hữu Nhà nước, đồng thời tăng dần tỷ trọng đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược, tại hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn tới là một chiến lược đúng đắn vì sẽ giúp cho hệ thống quản trị ngân hàng Việt Nam được cải thiện và sự công khai minh bạch sẽ tốt hơn.
3.3.2.2. Giải pháp nhằm kiểm soát và giảm tỷ lệ nợ xấu tín dụng ngân hàng
Xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của chương trình tái cơ cấu các TCTD, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, các Ngân hàng cần chủ động triển khai các giải pháp kiềm chế nợ xấu gia tăng, nâng cao chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đồng thời hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các biện pháp xử lý nợ xấu được triển khai cần tập trung vào các vấn đề chính như cơ cấu lại nợ, thu nợ, xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, tiết giảm chi phí, hạn chế tăng lương, thưởng, thù lao, chia cổ tức, lợi nhuận để tập trung trích lập dự phòng rủi ro. Cụ thể:
- Thường xuyên đánh giá lại, phân loại đúng chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ; tiếp tục cơ cấu lại nợ; hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi sản xuất kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ và giảm chi phí hoạt động; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu.
- Tăng cường năng lực quản trị rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng, nhằm hạn chế nợ xấu mới phát sinh, đồng thời phối hợp chặt chẽ với Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) để triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật.
- Chủ động tiếp xúc, làm việc với các định chế tài chính, các tổ chức trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm sự hỗ trợ, hợp tác trong lĩnh vực xử lý nợ xấu.
- Bên cạnh bán nợ cho VAMC, các NHTM cũng cần chủ động xử lý nợ xấu bằng các biện pháp như: xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ vay. Với các doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc do tình hình kinh tế khó khăn, do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động thì có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn; chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Phương thức này không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các NHTM.
3.3.3. Giải pháp nâng cao năng lực hoạt động nói chung và năng lực hoạt động tự doanh nói riêng của các NHTM
- Nâng cao hiệu quả công tác quản trị điều hành: so với các NHTM của các nước có nền kinh tế phát triển thì công tác quản trị, điều hành của các NHTM Việt Nam hiện nay còn thua kém, do đó các NHTM trong nước cần nâng cao công tác quản trị điều hành ở tất cả các khâu như: tổ chức, nhân sự, quản trị tài sản và nợ, quản trị rủi ro thanh khoản, lãi suất, tỷ giá v.v. tất cả những vấn đề trên là rất bức thiết, quan trọng nhằm tạo ra những định hướng đúng đắn để dẫn dắt các định chế tài chính hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế điều hành và quản lý nguồn vốn khả dụng đối với một số NHTM, đặc biệt là cơ chế quản lý vốn tập trung và điều hòa vốn nội bộ linh hoạt và hiệu quả hơn so với cách thức quản lý hiện nay. Bên cạnh đó, về mặt quản lý, cải thiện quản trị rủi ro thanh khoản (như hệ thống ALCO) cần được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM hiện nay để đảm bảo các NHTM có thể chịu đựng được cú sốc. Điều này dẫn đến việc nguồn vốn thanh khoản của toàn bộ hệ thống sẽ ổn định và hạn chế được những biến động khó lường, và trên cở sở đó tạo nên sự chủ động trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu.
- Tăng cường năng lực tài chính của các NHTM: NHTM cần chủ động nâng cao năng lực tài chính của mình trên một số phương diện chính như: vốn tự có, chất
lượng tài sản và khả năng sinh lời, giảm tỷ lệ nợ xấu tín dụng; trích lập đầy đủ các khoản dự phòng rủi ro nhằm minh bạch hóa tình hình tài chính và tài sản có rủi ro; khi cho vay hoặc đầu tư mới phải thực hiện đúng quy trình cho vay và đầu tư, chấn chỉnh việc cho vay và đầu tư vào “những doanh nghiệp sân sau của ngân hàng”.
- Nâng cao năng lực tự doanh:
Các NHTM cần phải chú trọng phát triển hoạt động tự doanh trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh trái phiếu trên cơ sở quy định các hạn mức cụ thể cùng với cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro phát sinh. Để thực hiện hoạt động này có hiệu quả, trước hết NHTM cần tách biệt giữa 2 mảng hoạt động là bộ phận phục vụ hệ thống và bộ phận kinh doanh (bộ phận tự doanh). Nếu có nhu cầu, cán bộ giao dịch tại bộ phận phục vụ hệ thống sẽ liên hệ với giao dịch viên tại bộ phận kinh doanh để hỏi giá và thực hiện đầu tư hoặc bán nếu thấy phù hợp, hoặc sẽ trực tiếp sử dụng trái phiếu tham gia vào các nghiệp vụ trái phiếu với NHNN hoặc với các TCTD như repo, cầm cố, chiết khấu v.v. Về phần mình, giao dịch viên của bộ phận kinh doanh sẽ có trách nhiệm tìm hiểu, nắm bắt và phân tích tình hình thị trường, đánh giá đối tác, nắm bắt được xu thế biến động và giá cả thực tiễn đang giao dịch. Giao dịch viên có thể chủ động mua và bán ngay lập tức (thực hiện môi giới) hoặc giữ lại để đầu cơ khi giá thay đổi.
Hoạt động tự doanh được thực hiện bằng cách tìm kiếm thặng dư giá cố gắng mua các trái phiếu được định giá thấp, nắm giữ chúng đến khi giá tăng và sau đó bán các trái phiếu này trước khi chúng đáo hạn để ghi nhận lợi nhuận. Để thực hiện hoạt động tự doanh trái phiếu có hiệu quả đòi hỏi cán bộ thực hiện tận dụng nhiều kỹ thuật khác nhau nhằm tìm kiếm những trái phiếu có khả năng tăng giá trên cơ sở phân tích đầy đủ các yếu tố: Tình hình kinh doanh của chủ thể phát hành dẫn đến khả năng thăng hạng định mức tín nhiệm, làm giảm biên độ tín dụng; khả năng cắt giảm lãi suất thị trường; các sự kiện làm tăng giá trái phiếu như mua bán, sáp nhập doanh nghiệp v.v.
Ngoài ra, trong điều kiện các cơ quản quản lý tại Việt Nam cho phép và ban hành đầy đủ hệ thống pháp lý về việc bán khống, các ngân hàng có thể thực hiện hoạt động tự doanh trên cơ sở việc bán trái phiếu mà ngân hàng chưa sở hữu, do đó
ngân hàng phải đi vay trái phiếu tương ứng trên thị trường với kỳ vọng sẽ mua lại với giá thấp hơn trong tương lai. Chiến lược này được áp dụng đối với việc đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng trong những trường hợp sau:
✓ Tình hình kinh doanh của chủ thể phát hành dẫn đến khả năng xuống hạng
định mức tín nhiệm, làm tăng biên độ tín dụng.
✓ Khả năng tăng lãi suất thị trường.
✓ Các sự kiện làm giảm giá trái phiếu như mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
3.3.4. Giải pháp hoàn thiện về hệ thống pháp lý nội bộ, cơ chế hoạt động và các chỉ tiêu đánh giá hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam
- Về văn bản pháp lý nội bộ và cơ chế hoạt động của NHTM: Hiện nay, nhìn chung số lượng văn bản quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM ban hành là chưa đầy đủ, bao gồm ở các nội dung như: quy định về quy trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu đối với các loại trái phiếu ngoại tệ; quy trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp; quy định về việc cấp hạn mức giao dịch và quản trị rủi ro đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu; quy trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu đối với các sản phẩm phái sinh v.v. Điều này đã và đang gây hạn chế cho sự phát triển hoạt động này của các NHTM Việt Nam. Trên cơ sở đó, các NHTM cần nhanh chóng tăng cường bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý còn thiếu tại từng NHTM, tập trung ban hành các văn bản quy định về quy trình đầu tư kinh doanh trái phiếu ngoại tệ (bao gồm trái phiếu ngoại tệ được phát hành trong nước, hoặc do quốc gia khác phát hành hoặc do Chính phủ Việt Nam phát hành ra quốc tế); quy trình đầu tư kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp trong toàn hệ thống, các quy trình quản trị rủi ro đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu v.v. Việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp lý và cơ chế hoạt động của từng NHTM phải mang tính thực tiễn, theo quy định của Bộ tài chính, NHNN, pháp luật hiện hành; và phù hợp với hệ thống pháp lý của các hoạt động khác của NHTM.
- Bên cạnh đó, hiện nay đối với các nghiệp vụ truyền thống khác như tín dụng, huy động vốn v.v. thì các nhà quản lý có thể dễ dàng đánh giá thực trạng, chất lượng hoạt động thông qua hệ thống các chỉ tiêu đo lường, đánh giá. Do đó, các
NHTM cũng cần thiết phải xây dựng và áp dụng bộ chỉ tiêu đánh giá phù hợp với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu để giúp các nhà quản trị có chiến lược phát triển hợp lý. Việc xây dựng và phân tích các chỉ tiêu cơ bản nhằm đánh giá cả về mặt lượng và mặt chất đối với thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu cần thực hiện thường xuyên trong khoảng thời gian xác định (theo tháng/quý/năm) để có thể nhận biết sớm được thực trạng của chất lượng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các ngân hàng. Mặt khác, để có thể đưa ra những biện pháp hữu hiệu để củng cố và phát triển hoạt động này cả về mặt lượng và mặt chất, các nhà quản trị NHTM khi xem xét đánh giá thì không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp một hệ thống các chỉ tiêu, và tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể mà người đánh giá có thể lựa chọn, kết hợp các chỉ tiêu phù hợp nhằm đưa ra một kết quả phù hợp, khách quan và chính xác nhất. Mặt khác, cũng cần phải có sự so sánh dữ liệu về các chỉ số này (tính toán tốc độ tăng trưởng) giữa các năm, hoặc với các đối thủ cạnh tranh và bình quân ngành trên cơ sở biến động của nền kinh tế và các yếu tố khác. Để từ đó, có phương hướng, giải pháp cho những vấn đề còn yếu kém trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng mình, sao cho đạt kết quả mong muốn.
- Về cơ chế khen thưởng - kỷ luật: nhanh chóng nghiên cứu xây dựng và thực hiện cơ chế khen thưởng xứng đáng và kịp thời, rõ ràng cho các cán bộ liên quan đến hoạt động trái phiếu đã đạt nhiều thành tích tốt trong quá trình công tác. Đặc biệt, trong trường hợp phát triển mảng nghiệp vụ hoạt động tự doanh, môi giới trái phiếu, cũng nên nghiên cứu và triển khai phương án khen thưởng trên cơ sở trích % lợi nhuận thu được trong 1 khoảng thời gian cụ thể (tháng/quý/năm) mà 1 giao dịch viên đã tạo ra. Tuy nhiên, ngược lại cũng phải áp dụng biện pháp kỷ luật (chuyển công tác khác, hoặc phạt % tiền mặt trên tổng số thua lỗ trong giao dịch trái phiếu mà cán bộ giao dịch tạo nên) trong các trường hợp như: cán bộ giao dịch tạo nên thua lỗ liên tục trong 1 khoảng thời gian cụ thể (tháng/quý/năm), hoặc vi phạm các quy định pháp luật hiện hành. Các biện pháp này sẽ tạo nên động lực thúc đẩy, sự công bằng và khả năng muốn công hiến, muốn khẳng định mình của các cán bộ giao dịch trái phiếu.
3.3.5. Giải pháp về nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ
Tiếp tục đổi mới công nghệ ngân hàng hỗ trợ cho hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại hóa, tự động hóa là điều kiện cần thiết trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt này. Việc nâng cấp bao gồm:
- Sử dụng hệ thống thông tin Bloomberg: hiện nay hầu hết các tổ chức, ngân hàng lớn hoặc có tiềm lực mạnh về trái phiếu đều sử dụng hệ thống thông tin Bloomberg để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bên cạnh hệ thống Reuters. Các chuyên gia về kinh doanh trái phiếu đã nhận định rằng hệ thống Bloomberg là kênh cung cấp thông tin về trái phiếu trong và ngoài nước đầy đủ, chuyên nghiệp và toàn diện hơn hệ thống Reuters, và hệ thống Reuters được tập trung sử dụng phổ biến hỗ trợ cho hoạt động tiền gửi, vay liên ngân hàng.
- Bên cạnh đó, cũng cần thiết kết nối chương trình quản lý nội bộ của ngân hàng đang sử dụng với hệ thống thông tin Reuters hoặc Bloomberg nhằm mục đích cập nhật dữ liệu động (real-time) về sự biến động giá trái phiếu trên thị trường,các thông tin cơ bản đối với các loại trái phiếu mới phát hành (bao gồm: khối lượng phát hành, kỳ hạn, Coupon v.v..), từ đó cập nhật được sự biến động lỗ/lãi và đánh giá lại danh mục trái phiếu đang nắm giữ, giải phóng sức lao động của cán bộ giao dịch như hiện nay.
- Nâng cấp thêm một số chức năng mới trong hệ thống hỗ trợ để loại bỏ những công việc thủ công hiện tại hoặc đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu (quản trị rủi ro, quản lý danh mục trái phiếu v.v.) trong tương lai một cách có hiệu quả. Chẳng hạn cần thiết nâng cấp chức năng quản lý tình trạng lưu ký trái phiếu (Custody Management) để hỗ trợ cán bộ giao dịch quản lý tự động mà không phải theo phương pháp thủ công, hoặc nâng cấp các chức năng hỗ trợ cho các giao dịch trái phiếu phái sinh. Hoặc thêm chức năng tạo tự động những báo cáo phát sinh (báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo doanh số với đối tác, báo cáo tình trạng lưu ký trái phiếu, báo cáo chi tiết danh mục đầu tư, báo cáo biến động lãi suất v.v).
- Các ngân hàng cần sử dụng các giải pháp tích hợp, cho phép quản lý toàn diện hoạt động giao dịch đầu tư kinh doanh thông suốt từ Bộ phận kinh doanh trực
tiếp (Front Office), qua bộ phận Quản trị rủi ro (Middle Office) cho đến bộ phận hỗ trợ (Back Office) theo luồng công việc tự động được xây dựng phù hợp với nhu cầu của ngân hàng. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng cũng cần phát triển các chương trình thuật toán nội bộ để xây dựng phương án mua bán trái phiếu theo các chiến thuật khác nhau. Các phần mềm máy tính được xây dựng trên nhiều mô hình tài chính định lượng khác nhau, kết hợp giữa thuật toán tin học trong lập trình và các nghiên cứu tài chính thực nghiệm. Các thuật toán này sử dụng nhiều mô hình toán phức tạp để xử lý các biến số đầu vào nhằm ra quyết định đầu tư kinh doanh. Các thuật toán này cũng được phát triển cho từng thị trường và được điều chỉnh cho từng thời kỳ. Với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, cùng với các hệ thống hiện đại như Bloomberg, Reuters cung cấp dịch vụ hỗ trợ tích hợp (các thông tin cơ bản, dữ liệu kinh tế, cách tính giá), các mô hình kinh doanh bằng thuật toán ngày càng phát triển rộng rãi.
3.3.6. Giải pháp về cơ cấu tổ chức và nâng cao trình độ nhân sự
- Đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự: các NHTM cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, điều đó cần được thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm sao để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp, chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh trái phiếu nhằm đảm bảo quá trình vận hành và phát triển, nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu tại ngân hàng hiệu quả và an toàn.
- Nhìn chung hiện nay mặc dù đội ngũ cán bộ trực tiếp đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM có khả năng đảm nhiệm được việc tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. Nhiều cán bộ có khả năng trong việc định giá trái phiếu, phân tích chất lượng của từng loại trái phiếu, hoặc khả năng phân tích và dự báo xu hướng thay đổi lãi suất, đề xuất để tham mưu cho lãnh đạo ra quyết định đầu tư đúng đắn và hiệu quả. Tuy nhiên, để có thể bắt kịp với nhịp độ phát triển sôi động đòi hỏi cán bộ phải am hiểu chuyên môn, nắm vững nghiệp vụ, kiến thức luôn được cập nhật và nâng cao. Họ phải có khả năng vận hành các quy trình nghiệp vụ một cách chủ động, xử lý kịp thời mọi tình huống, tạo ra hiệu quả trong kinh doanh, hỗ trợ Ban lãnh đạo trong việc quản lý. Tuy nhiên, các cán bộ ở đây là phải bao gồm các cán bộ giao dịch tại các phòng kinh doanh trực tiếp; cán bộ quản trị rủi ro
trái phiếu, cán bộ xây dựng và quản lý kế hoạch đầu tư kinh doanh trái phiếu, cán bộ hạch toán tại các phòng hỗ trợ nghiệp vụ. Điều này là cần thiết bởi sẽ tạo nên sự thống nhất, đồng bộ và hạn chế những chồng chéo giữa các Phòng trong quá trình phối hợp thực hiện và hạn chế rủi ro phát sinh đối với nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu tại ngân hàng. Do đó nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của Ban lãnh đạo ngân hàng là phải củng cố nguồn nhân lực hiện có, đào tạo nhân theo các tiêu chuẩn cơ bản thiết yếu sau:
+ Nắm vững các quy định và hệ thống pháp lý liên quan đến các lĩnh vực quản lý kinh doanh vốn, đầu tư kinh doanh trái phiếu.
+ Các quy trình nghiệp vụ ngân hàng phải am hiểu tường tận, thấu đáo.
+ Trình độ ngoại ngữ tốt và thành thạo các nghiệp vụ hạch toán kế toán, kỹ năng máy tính.
+ Am hiểu và có khả năng phân tích kinh tế vĩ mô, vi mô và các lĩnh vực liên quan đến kinh doanh và quản lý danh mục đầu tư kinh doanh trái phiếu
+ Tham gia đầy đủ và có các chứng chỉ đối với các khóa đào tạo về chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng do Ủy Ban Chứng Khoán Việt Nam, Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà nội cấp. Đây cũng là yêu cầu cần thiết đối với các cán bộ giao dịch nhằm nâng cao hiểu biết và đảm bảo về mặt pháp lý trong trường hợp các cơ quan chức năng yêu cầu.
+ Mặt khác, ngân hàng cũng cần có chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai như: Định kỳ tổ chức kiểm tra đánh giá trình độ, có chế độ khen thưởng đối với những người đạt trình độ vượt mức yêu cầu, hoặc khuyến khích, tạo điều kiện, trợ giúp kinh phí cho cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là những cán bộ trẻ.
- Các NHTM từng bước cơ cấu lại bộ máy hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, cụ thể là thành lập Trung tâm (hoặc Khối) tại Trụ Sở Chính và có đầy đủ các bộ phận thực hiện và hỗ trợ nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu như mô hình hoạt động của các ngân hàng hiện đại khác (bao gồm các bộ phận kinh doanh, bộ phận kiểm soát rủi ro, bộ phận nghiên cứu, và bộ phận xử lý giao dịch).
Đồng thời phải tạo nên sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và