Mô Hình Nghiên Cứu Tác Động Của Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại


với số dư nợ này. Để đánh giá rủi ro trong đầu tư và chất lượng của hoạt động đầu tư trái phiếu các chỉ tiêu sau thường được sử dụng:

(2) Tỉ lệ tổng giá trị trái phiếu NHTM đầu tư/ tổng tài sản của NHTM

Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên mức độ phân bổ tổng tài sản của ngân hàng đối với hoạt động đầu tư trái phiếu, qua đó nhằm phản ánh quy mô đầu tư cũng như mức độ tập trung của các ngân hàng thương mại đối với hoạt động này.

(3) Tỉ lệ tổng giá trị trái phiếu của các TCTD khác NHTM đầu tư/ tổng tài sản của NHTM

Việc các NHTM đầu tư vào trái phiếu do các TCTD khác phát hành về bản chất cũng tương tự như việc đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đầu tư vào trái phiếu của các TCTD có thể dẫn đến những biến tướng và tiềm ẩn rủi ro cho bản thân các NHTM cũng như hệ thống. Vì vậy việc theo d i, kiểm soát mức độ đầu tư của các NHTM vào trái phiếu do TCTD khác phát hành là điều cần thiết.

(4) Tỉ lệ tổng giá trị trái phiếu thuộc các ngành/lĩnh vực kinh doanh tiềm ẩn rủi ro cao NHTM đầu tư/ tổng tài sản của NHTM

Mức độ rủi ro trong đầu tư trái phiếu của các NHTM chịu chi phối bởi hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp phát hành. Việc đánh giá mức độ tham gia đầu tư trái phiếu vào các ngành, lĩnh vực đang có xu hướng không ổn định, thoái trào hay rủi ro cao trong nền kinh tế để định hướng hoạt động đầu tư trái phiếu cũng như kiểm soát hoạt động này là điều cần thiết.

(5) Tỉ lệ tổng giá trị trái phiếu có bảo đảm/ tổng tài sản của NHTM

Nếu các tỉ lệ trên tuân thủ giới hạn quy định của NHTƯ/NHNN và quy định nội bộ của ngân hàng một mặt phản ánh tính tuân thủ pháp luật, mặt khác góp phần đảm bảo cơ cấu kinh doanh đã được xác lập và hạn chế rủi ro trong đầu tư trái phiếu. Ngược lại, nếu NHTM đầu tư trái phiếu với tỉ lệ quá lớn so với tổng tài sản, hoặc và đầu tư quá nhiều vào một/một nhóm loại trái phiếu sẽ gia tăng nguy cơ rủi ro.

(6) Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trong đầu tư trái phiếu

Tỉ lệ nợ quá hạn trong đầu tư trái phiếu = Nợ quá hạn trong đầu tư trái phiếu

/Tổng dư nợ đầu tư trái phiếu


(7) Nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu trong đầu tư trái phiếu

Tỉ lệ nợ xấu trong đầu tư trái phiếu = Nợ xấu trong đầu tư trái phiếu /Tổng dư nợ đầu tư trái phiếu

Các tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong đầu tư trái phiếu phản ánh chất lượng và hiệu quả trong hoạt động đầu tư trái phiếu của các NHTM. Tỷ lệ này càng cao đồng nghĩa với rủi ro mất vốn càng lớn. Tương tự như đối với hoạt động tín dụng, các tỷ lệ nêu trên cần được rà soát, kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên để đảm bảo kiểm soát rủi ro trong ngân hàng.

(8) Cơ cấu trái phiếu đầu tư

Cơ cấu trái phiếu đầu tư = Tổng giá trị trái phiếu loại i/ Tổng giá trị trái phiếu NHTM đầu tư

Cơ cấu trái phiếu đầu tư phản ánh mức độ rủi ro danh mục trong đầu tư trái phiếu. Nếu ngân hàng đầu tư quá tập trung vào trái phiếu của những ngành/lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm, đầu tư quá nhiều trái phiếu không có đảm bảo thì rủi ro tiềm ẩn về khả năng thu hồi vốn gốc và lãi sẽ cao hơn. Ngoài ra, việc ngân hàng không tuân thủ quy định của các cơ quan quản lý nhà nước (NHTW/NHNN) về việc đầu tư trái phiếu của các TCTD khác phát hành… cũng có thể gặp phải các rủi ro pháp lý.

(9) Mức độ tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện, giới hạn đầu tư trái phiếu (quy định về nguyên tắc, tổ chức thực hiện quy trình đầu tư, về giới hạn tỉ lệ đầu tư trái phiếu, về đầu tư chéo giữa các TCTD…).

Trong bối cảnh phát triển tài chính toàn diện đang trở thành xu thế phổ biến, ngoài việc quan tâm đầu tư nguồn lực cho các hoạt động kinh doanh mang lại thu nhập, các NHTM cần quan tâm phát triển các hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu cũng cho thấy, việc tuân thủ pháp luật, việc triển khai một số hoạt động ngân hàng, mặc dù không mang lại lợi ích (thu nhập) trước mắt, nhưng góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu ngân hàng, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong dài hạn. Đây cũng là nội dung quan trọng mà bộ phận kiểm soát nội bộ của mỗi ngân hàng cần quan tâm thích đáng trong quá trình triển khai thực hiện để góp phần nâng cao vị thế, uy tín của ngân


hàng, không nên nhìn nhận đây là chức trách của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng.

* Các chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ hoạt động đầu tư trái phiếu

(10) Tổng thu nhập (lợi nhuận) từ hoạt động đầu tư trái phiếu

(11) Tỉ suất sinh lợi từ hoạt động đầu tư trái phiếu

(12) Tỉ lệ thu nhập (lợi nhuận) từ đầu tư trái phiếu trên tổng thu nhập (lợi nhuận) ngân hàng.

Nếu các chỉ tiêu nêu trên đạt được các mục tiêu đặt ra, chứng tỏ hoạt động đầu tư trái phiếu của ngân hàng đạt kết quả tốt. Ngược lại, nếu thu nhập từ hoạt động đầu tư thấp, rủi ro cao, có dấu hiệu vi phạm quy định nội bộ và pháp luật hiện hành về đầu tư trái phiếu, chứng tỏ hoạt động đầu tư của ngân hàng kém hiệu quả, tiềm ẩn rủi ro và nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết, khắc phục.

2.4.2. Mô hình nghiên cứu tác động của hoạt động đầu tư trái phiếu đến kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

Mô hình nghiên cứu tác động của đầu tư trái phiếu đến kết quả kinh doanh của NHTM xuất phát từ các mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa đa dạng hóa và hiệu quả hoạt động của ngân hàng (DeYoung và Rice, 2003; Odesanmi và Wolfe, 2007; Chiorazzo và cộng sự, 2008; Baele và cộng sự, 2007;…). Để đo lường sự đa dạng hoá trong hoạt động ngân hàng, các nghiên cứu thường sử dụng 2 phương pháp tiếp cận: (1) phương pháp tiếp cận dựa theo thu nhập và (2) phương pháp tiếp cận dựa theo tài sản.

Với phương pháp tiếp cận dựa theo thu nhập, các nghiên cứu sử dụng tỷ lệ từng nguồn thu nhập trên tổng thu nhập của ngân hàng thành các thành phần cụ thể như sau: thu nhập từ cho vay (thu nhập từ lãi) - (LoanInc), thu nhập từ dịch vụ - (ComInc), thu nhập từ hoạt động đầu tư/đầu tư trái phiếu - (TradInc).

Với phương pháp tiếp cận dựa theo tài sản, các nghiên cứu sử dụng tỷ lệ từng loại tài sản sinh lời trên tổng tài sản để đánh giá mức độ ảnh hưởng của phân bổ tài sản đến hoạt động ngân hàng với các thành phần sau: cho vay - (Loan), đầu tư/đầu tư trái phiếu - (Trad).


Mô hình nghiên cứu:

Phương pháp tiếp cận theo thu nhập:

Bank Risk (hoặc Profitability)i,t= α0 + α1 × LoanInc/OpInci,t + α2 × ComInc/OpInci,t + α3 × Trad/OpInci,t + α4 × Controls t + vi + εi,t

Phương pháp tiếp cận theo tài sản:

Bank Risk (hoặc Profitability)t= β0 + β1 × Loan/TAi,t + β2 × Trad/TA i,t + β3 × Controls t-1 + vi + εit

Trong đó Bank Risk hoặc Profitability lần lượt là các biến phụ thuộc ROA, ROE để đo lường hiệu quả kinh doanh và Z-Score để đo lường rủi ro của ngân hàng.


Z-Scorei,t =


Trong đó σROAit là độ lệch chuẩn của ROAit + Eit/Ait là tỉ số vốn chủ sở hữu trên tài sản. Chỉ số Z-score biến thiên nghịch chiều với mức độ rủi ro. Z-score càng cao biểu thị cho mức độ rủi ro càng thấp.

Controls là các biến kiểm soát trong mô hình, cụ thể bao gồm:

TA - Quy mô ngân hàng: các ngân hàng lớn có thể đầu tư nhiều hơn về mặt công nghệ và quản lý, do đó, hiệu quả hoạt động cũng như khả năng quản lý rủi ro và có các cơ hội khai thác TNNL tốt hơn (DeYoung và Rice, 2003; Chiorazzo và ctg., 2008). Nghiên cứu chỉ sử dụng biến TA trong trường hợp biến phụ thuộc là ROE và SHROE. Biến TA đo lường bằng logarit tổng tài sản của ngân hàng.

LOAN - Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản: đại diện cho tác động của chiến lược cho vay trên hiệu quả kinh doanh ngân hàng. Theo Chiorazzo và cộng sự (2008), Stiroh (2004), các ngân hàng tập trung vào mục đích cho vay sẽ ít chú ý đến các hoạt động khác và ngược lại.

EQUITY - Tỷ lệ VCSH trên tổng tài sản: khi ngân hàng có tỷ lệ VCSH cao được xem là an toàn, tránh được rủi ro thanh khoản và tạo được niềm tin với khách hàng; bên cạnh đó, các ngân hàng có nhiều VCSH sẽ có lợi thế cung cấp nhiều loại


dịch vụ tài chính hơn cho khách hàng. Nghiên cứu chỉ sử dụng biến này trong trường hợp biến phụ thuộc là ROA và SHROA, (Chiorazzo và cộng sự, 2008)

COST - Tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản: khi chi phí tiền lương tăng nhanh hơn so với thu nhập từ hoạt động mới sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng (Lepetit và cộng sự, 2007).

DTL - Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng nợ phải trả: chỉ tiêu này cho thấy cấu trúc tài trợ của ngân hàng. Tỷ lệ này cao sẽ gia tăng hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng do tiết kiệm được chi phí vốn vì nguồn vốn từ tiền gửi khách hàng được cho là nguồn tài trợ ổn định và rẻ hơn so với các nguồn tài trợ khác.

GDP - Tăng trưởng kinh tế: GDP thực đo lường khả năng tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng và ngược lại.

INF - Tỷ lệ lạm phát: được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI. Lạm phát tác động đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng thông qua lương và chi phí hoạt động khác của ngân hàng (Revell, 1979).

Bảng 2.2: Mô tả tóm tắt các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu


Biến

Diễn giải

Công thức

Biến phụ thuộc

ROA (ROE) i,t

Hiệu quả kinh doanh

(bao gồm khả năng sinh lời trên tài sản và VCSH)

( )

Z-SCOREi,t

Rủi ro phá sản


Biến độc lập

LoanInc/OpInci,t

Tỷ lệ thu nhập từ cho vay

Thu nhập từ cho vay năm

t/Tổng thu nhập năm t

ComInc/OpInci,t

Tỷ lệ thu nhập từ dịch vụ

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ

năm t /Tổng thu nhập năm t

Trad/OpInci,t

Tỷ lệ thu nhập từ đầu tư chứng khoán

Thu nhập từ mua bán chứng

khoán năm t /Tổng thu nhập năm t

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.

Hoạt động đầu tư trái phiếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam 1683880233 - 9



Loan/TAi,t

Tỷ lệ cho vay

Cho vay năm t/ Tổng tài sản

năm t

Trad/TAi,t

Tỷ lệ quy mô đầu tư

chứng khoán

Quy mô đầu tư năm t/ Tổng tài

sản năm t

Biến kiểm soát

TAi,t

Quy mô ngân hàng

Logarithm (tổng tài sản) của

ngân hàng i năm t

LOANi,t

Tỷ lệ dư nợ cho vay

Tổng dư nợ cho vay năm t/tổng

tài sản năm t

EQUITYi,t

Tỷ lệ VCSH

VCSH năm t/tổng tài sản năm t

COSTi,t

Tỷ lệ chi phí hoạt động

Tổng chi phí hoạt động năm

t/tổng tài sản năm t

DTLi,t

Tỷ lệ tiền gửi khách hàng

Tiền gửi khách hàng năm t/tổng

nợ phải trả năm t

GDPi,t

Tăng trưởng kinh tế

GDP

INFi,t

Tỷ lệ lạm phát

Chỉ số giá tiêu dùng CPI


2.4.3. Các yếu tố tác động tới hoạt động đầu tư trái phiếu của ngân hàng thương mại

Theo nghiên cứu của Vũ Hoàng Nam (2015), quy mô và hiệu quả hoạt động đầu tư trái phiếu phụ thuộc vào 5 yếu tố: cấu trúc sở hữu ngân hàng, quy mô thị trường trái phiếu, biến động kinh tế vĩ mô và một số yếu tố khác (biến kiểm soát) như tỉ lệ nợ xấu, quy mô tài sản ngân hàng... Trong luận án của mình, trên cơ sở tham khảo nghiên cứu của Vũ Hoàng Nam, tác giả luận án bổ sung, phát triển thành hai nhóm yếu tố: yếu tố chủ quan (gồm 5 yếu tố); yếu tố khách quan (gồm 4 yếu tố).


2.4.3.1. Yếu tố chủ quan

* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng

Chiến lược kinh doanh của NHTM chính là cơ sở để các nhà quản trị xây


dựng chính sách đầu tư trong đó có đầu tư trái phiếu. Mục tiêu và chiến lược phát triển ngắn hạn và trung dài hạn ảnh hưởng có tính quyết định phát triển hoạt động đầu tư trái phiếu ở quy mô nào và chiếm lĩnh thị phần thị trường nào trong từng giai đoạn phù hợp với nguồn lực nội tại của NHTM. Chiến lược kinh doanh cũng là kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động đầu tư trái phiếu của NHTM trong một thời kỳ dài và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn thị trường nhưng không làm thay đổi bản chất và kết quả của chiến lược.

* Tiềm lực tài chính

Trong nền kinh tế thị trường, mọi yếu tố đầu vào của hoạt động kinh doanh đều phải đi mua hoặc đầu tư ứng trước. Do vậy, để tiến hành đầu tư trái phiếu, ngân hàng phải có quy mô vốn nhất định. Tiềm lực tài chính của ngân hàng không chỉ là số vốn hiện có mà còn thể hiện ở khả năng khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính trong và ngoài ngân hang phục vụ cho chiến lược kinh doanh. Tiềm lực tài chính đủ mạnh cho phép ngân hàng mở rộng quy mô và đa dạng hóa hoạt động đầu tư, tối thiểu hóa chi phí, tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động đầu tư của ngân hàng. Tiềm lực tài chính của NHTM được thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn chủ sở hữu, quy mô và chất lượng tài sản, khả năng sinh lời cao và ổn định, khả năng thanh khoản.

* Hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tư trái phiếu

Theo thông lệ quốc tế, quản lý rủi ro tín dụng trong đó có hoạt động đầu tư trái phiếu có hai mô hình quản lý rủi ro phổ biến đang được các NHTM áp dụng, đó là: mô hình quản lý rủi ro tập trung và mô hình quản lý rủi ro phân tán.

Mô hình quản lý rủi ro tập trung là mô hình có sự tách biệt r ràng chức năng quản lý rủi ro và kinh doanh với ưu điểm chính là quản lý rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài, thiết lập và duy trì môi trường quản lý rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro, xây dựng chính sách quản lý rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống. Mô hình này rất thích hợp với các NHTM lớn do tốn thời gian và công sức đầu tư, đòi hỏi đội ngũ cán bộ có


sự am hiểu sâu về kiến thức và thực tiễn triển khai. Tuy nhiên, không phải NHTM nào khi áp dụng mô hình này cũng thu được thành tựu như nhau do mức độ quan tâm chú trọng tới các yếu tố trong mô hình khác nhau.

Mô hình quản lý rủi ro phân tán chưa có sự tách bạch giữa quản lý rủi ro và kinh doanh, trong đó các đơn vị kinh doanh thực hiện đầy đủ tất cả các khâu của khoản tín dụng/ đầu tư từ thẩm định, giải ngân, kiểm soát đến xử lý nợ. Mô hình này nhờ tính đơn giản, gọn nhẹ nên được các NHTM quy mô nhỏ áp dụng. Điểm yếu của mô hình này là việc quản lý rủi ro mang tính gián đoạn, không chuyên sâu, chủ yếu tập trung vào chức năng xử lý nợ mà không có dự báo rủi ro và có các biện pháp dự phòng rủi ro xảy ra.

Tùy thuộc vào chiến lược phát triển mà các NHTM sẽ lựa chọn các mô hình quản lý rủi ro tương thích. NHTM nào triển khai được mô hình quản lý rủi ro tín dụng phù hợp với chiến lược phát triển, xây dựng được quy trình đầu tư trái phiếu chặt chẽ/tối ưu và hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý rủi ro tín dụng/đầu tư trái phiếu sẽ đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả.

* Chất lượng nhân lực

Nhân lực là yếu tố vô cùng quan trọng trong tất cả các hoạt động, thể hiện qua trình độ, phẩm chất, động cơ, mức độ trung thành và chuyên môn nghiệp vụ của nguồn nhân lực. Trên thực tế, sự tồn tại và phát triển của NHTM phụ thuộc lớn vào sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ, cơ sở vật chất và người lao động, các nguồn lực này có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại lẫn nhau. Những yếu tố như vốn có thể huy động được, cơ sở vật chất có thể mua sắm được, khoa học công nghệ có thể sao chép được nhưng không thể làm được những điều này đối với nguồn lực con người. Con người là chủ thể ra các quyết định đầu tư trái phiếu, các chiến lược kinh doanh, các quyết định đầu tư hay mua sắm các nguồn lực khác. Các NHTM muốn hoạt động đầu tư trái phiếu có hiệu quả cao phải có trong tay đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, nắm vững chuyên môn và am hiểu các mặt nghiệp vụ. Ngoài ra, tính tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp của nhân viên ngân hàng cũng có tác động lớn đến lợi ích

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2023