nhau để hình thành giá giao dịch. Đấu giá theo lệnh (còn gọi là phương thức khớp lệnh), là phương thức giao dịch trong đó tất cả các lệnh mua và lệnh bán được chuyển đến sở giao dịch và khớp ghép với nhau theo nguyên tắc xác định giá khớp lệnh.
Có hai phương thức giao dịch thỏa thuận phổ biến, đó là giao dịch thỏa thuận điện tử và giao dịch thỏa thuận thông thường. Giao dịch thỏa thuận điện tử là hình thức giao dịch trong đó các lệnh giao dịch được chào với cam kết chắc chắn và thực hiện ngay khi có các đối tác lựa chọn mà không cần có sự xác nhận lại. Giao dịch thỏa thuận thông thường là hình thức giao dịch trong đó các bên tự thỏa thuận với nhau bằng công cụ gửi tin nhắn trên hệ thống giao dịch, hoặc bằng các phương tiện liên lạc ngoài hệ thống về các điều kiện giao dịch và báo cáo kết quả vào hệ thống giao dịch để xác lập giao dịch.
2.2. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. Có nhiều tiêu thức để phân loại hoạt động ngân hàng. Dựa vào bảng cân đối kế toán, người ta chia hoạt động ngân hàng thành hoạt động nội bảng và hoạt động ngoại bảng.
- Hoạt động nội bảng bao gồm các hoạt động được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Hoạt động nội bảng gồm các nghiệp vụ nguồn vốn (nợ và vốn chủ sở hữu) và nghiệp vụ sử dụng vốn (còn gọi là nghiệp vụ tài sản có).
+ Nghiệp vụ tạo vốn, gồm: phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ (vốn chủ sở hữu), huy động tiền gửi khách hàng, vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi và vay NHTƯ/NHNN và Kho bạc Nhà nước, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng… Ngoài ra, một số ngân hàng có thể nhận được các nguồn vốn khác như nguồn vốn ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, thu hộ, nguồn vốn trong thanh toán, vay
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Tổ Chức Hoạt Động Đầu Tư/đầu Tư Trái Phiếu Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Giá Trị Khoa Học Và Thực Tiễn Của Các Nghiên Cứu Đã Công Bố
- Căn Cứ Vào Trái Phiếu Có Kèm Phiếu Lãi Hay Không
- Tính Hai Mặt Trong Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Hình Nghiên Cứu Tác Động Của Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Vài Nét Khái Quát Về Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam
Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.
từ ngân hàng mẹ...
+ Nghiệp vụ tài sản có, gồm: nghiệp vụ ngân quỹ (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi của ngân hàng tại NHTƯ/NHNN và các TCTD khác), cho vay đối với khách hàng, đầu tư chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu), cho vay các TCTD khác…
- Hoạt động ngoại bảng gồm các dịch vụ không được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của NHTM như dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, ủy thác, đại lý, tư vấn và cung cấp thông tin...
2.2.2. Khái niệm và các hình thức đầu tư trái phiếu của ngân hàng thương mại
Dù là một phạm trù nghiên cứu khá phổ biến nhưng hoạt động đầu tư, kinh doanh trái phiếu của các NHTM vẫn chưa có sự thống nhất, r ràng hay phân định rạch ròi về khái niệm, thuật ngữ sử dụng. Thuật ngữ “Đầu tư” (Investing) hay “Kinh doanh” (Trading) trái phiếu thường được sử dụng phổ biến trong các tài liệu nghiên cứu khác nhau, cùng diễn tả hành động thu mua, nắm giữ trái phiếu của các NHTM nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường tài chính. Hoạt động này cũng thường được đề cập và phân tích thông qua khái niệm chung “đầu tư chứng khoán” của NHTM, không nhiều nghiên cứu thực sự phân tích hoạt động đầu tư, kinh doanh trái phiếu một cách độc lập và chuyên sâu.
Trong sách chuyên khảo “Commercial Bank Management”, tác giả cho rằng các ngân hàng thường phân bổ từ 1/5 đến 1/3 tổng tài sản sinh lời cho hoạt động đầu tư chứng khoán. Trong đó, “các chứng khoán chủ yếu bao gồm tín phiếu và trái phiếu Chính phủ, tín phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, các loại hình chứng khoán nợ khác và một lượng cổ phiếu hạn chế theo quy định của pháp luật”. Nghiên cứu cho rằng, việc nắm giữ chứng khoán có vai trò quan trọng giúp các ngân hàng gia tăng thu nhập, tăng cường thanh khoản và tính đa dạng trong danh mục tài sản của mình, qua đó hạn chế rủi ro, giảm nghĩa vụ chịu thuế đối với một phần thu nhập. (Rose, 2002).
Với các nghiên cứu nước ngoài, nhiều nghiên cứu sử dụng thuật ngữ “trading” (kinh doanh, giao dịch) để nói đến hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng của NHTM. Boot (2016) trong nghiên cứu
về mối quan hệ giữa hoạt động ngân hàng truyền thống (banking) và hoạt động giao dịch trên thị trường tài chính (trading) của các NHTM có chỉ ra rằng, nghiệp vụ “trading” bao gồm những hoạt động như tự doanh, đầu tư vào những chứng khoán được đảm bảo bởi tài sản, giao dịch chênh lệch lãi suất, tạo lập thị trường...
Sách giáo trình “Quản trị tác nghiệp Ngân hàng thương mại” do PGS,TS. Nguyễn Thị Phương Liên chủ biên cũng chỉ ra rằng song hành với các hoạt động kinh doanh truyền thống, các NHTM ngày nay còn tham gia vào lĩnh vực đầu tư chứng khoán nhằm các mục tiêu ổn định thu nhập, bù trừ rủi ro, cung cấp dự trữ cho ngân hàng hay tăng cường tính đa dạng hoá về mặt địa lý trong hoạt động kinh doanh… Trong đó, trái phiếu là một kênh đầu tư phổ biến của các NHTM. (Nguyễn Thị Phương Liên và cộng sự, 2011, tr. 160).
Tuy nhiên trong lĩnh vực kế toán ngân hàng, nghiệp vụ “đầu tư kinh doanh chứng khoán” được sử dụng rộng rãi, đồng thời có sự phân lập trong khái niệm “đầu tư chứng khoán” và “kinh doanh chứng khoán” của NHTM. Cụ thể, giáo trình “Kế toán ngân hàng” của Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh do PGS.TS Nguyễn Thị Loan chủ biên có đưa ra giải thích về các quy định và cách thức ghi nhận các khoản mục thuộc phạm vi nghiệp vụ “đầu tư, kinh doanh chứng khoán” của ngân hàng như sau: Tuỳ theo chính sách quản trị ngân hàng từng thời kỳ, chứng khoán ngân hàng mua vào có thể phân loại thành các hình thức chủ yếu bao gồm:
- Chứng khoán kinh doanh bao gồm những chứng khoán được ngân hàng quản lý trong danh mục tài sản để kinh doanh với dự bán ra trong thời gian ngắn nhằm mục đích thu lợi từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán, không nhằm mục đích kiểm soát doanh nghiệp.
- Chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán bao gồm những chứng khoán ngân hàng mua vào với mục đích đầu tư với mục tiêu dài hạn và sẵn sàng để bán khi có lợi ích kinh tế, không nhằm mục đích kiểm soát doanh nghiệp.
- Chứng khoán đầu tư được nắm giữ đến ngày đáo hạn bao gồm những chứng khoán mà ngân hàng có chủ ý, và có khả năng nắm giữ các chứng khoán cho
đến hết thời hạn để hưởng lãi suất. (Nguyễn Thị Loan và cộng sự, 2017, tr.68)
Khi quy chiếu theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam, khái niệm “đầu tư chứng khoán” và “kinh doanh chứng khoán” được phân biệt khá r ràng và có nội hàm tương đối độc lập. Theo Luật chứng khoán năm 2019, hai khái niệm “đầu tư” và “kinh doanh” chứng khoán được phân biệt như sau: khoản 15 điều 4 đưa ra khái niệm: “Đầu tư chứng khoán là việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán”, trong khi đó khoản 28 điều 4 Luật này giải thích thuật ngữ “Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và cung cấp dịch vụ về chứng khoán theo quy định tại Điều 86 của Luật này”. Như vậy, khái niệm “kinh doanh” có nội hàm bao quát hơn, không chỉ liên quan đến hoạt động tự doanh, mua bán chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận mà còn bao gồm cả các hoạt động phục vụ khách hàng nhằm thu phí như môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán… (Luật Chứng khoán, 2019)
Trong phạm vi các văn bản điều chỉnh hoạt động của các NHTM, Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-NHNN ngày 10/01/2018 quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đưa ra giải thích cụ thể về hoạt động đầu tư trái phiếu của NHTM “là việc mua, hoặc ủy thác cho tổ chức khác (bao gồm cả TCTD, chi nhánh NH nước ngoài) mua trái phiếu”. (NHNN, 2018, tr.5)
Tổng kết lại có thể thấy không có nhiều tài liệu đưa ra giải thích cụ thể về khái niệm “đầu tư trái phiếu” của NHTM, đồng thời với các cách tiếp cận khác nhau có thể có sự không thống nhất trong thuật ngữ mô tả hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng của các NHTM.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, NCS tiếp cận theo hướng vận dụng các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư chứng khoán và hoạt động của các NHTM ở Việt Nam. Theo quan điểm này, thuật ngữ thống nhất được sử dụng trong nghiên cứu là hoạt động đầu tư trái phiếu, theo đó khái niệm hoạt động đầu tư
trái phiếu của NHTM được hiểu là việc ngân hàng mua, hoặc ủy thác cho tổ chức khác (quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ…) mua trái phiếu để tối ưu hóa việc sử dụng vốn, đa dạng hóa thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Đầu tư trái phiếu là một trong các hoạt động nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn để mua trái phiếu nhằm mục tiêu chủ yếu là thu lợi nhuận. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng bị thắt chặt, những ngân hàng thừa vốn sẽ muốn tìm kênh đầu tư khác, ngoài tín dụng truyền thống, để tối ưu hóa việc sử dụng vốn. Ngoài ra, tùy theo điều kiện và bối cảnh thực tế, việc phát hành, đầu tư mua bán mua trái phiếu giữa các NHTM còn hướng tới thực hiện mục tiêu cải thiện nguồn vốn trung, dài hạn về mặt sổ sách, cũng như để đối phó với yêu cầu giảm tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn của các cơ quan quản lý.
Có nhiều hình thức đầu tư trái phiếu tùy theo tiêu thức phân loại.
- Theo cách thức đầu tư, đầu tư trái phiếu của NHTM bao gồm: đầu tư trực tiếp (ngân hàng tự đầu tư) và đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư (đầu tư ủy thác). Ngoài hình thức đầu tư trực tiếp từ tổ chức phát hành hoặc đại lý phát hành, NHTM có thể đầu tư thông qua quỹ đầu tư (là công ty con của ngân hàng, hoặc công ty độc lập với ngân hàng). Thay vì tự mình nghiên cứu thông tin và ra quyết định đầu tư, ngân hàng sẵn sàng giao phó công việc này cho công ty quản lý quỹ theo các tiêu chí và mục tiêu của quỹ.
- Theo thời gian đầu tư, đầu tư trái phiếu của NHTM bao gồm: đầu tư ngắn hạn, đầu tư trung và dài hạn. Việc phân chia hoạt động đầu tư theo thời gian chỉ có tính tương đối, vì: (i) Mục tiêu cuối cùng của tất cả các hoạt động đầu tư dù là ngắn hạn, hay dài hạn đều là tối đa hóa lợi ích; (ii) Sự chuyển giao giữa các hình thức đầu tư có thể thực hiện một cách dễ dàng khi phát sinh nhu cầu thanh toán đột xuất hoặc do sự biến động giá cả trên thị trường. Chẳng hạn, khi quyết định đầu tư, NHTM có ý định mua trái phiếu dài hạn và giữ chúng lâu dài, nhưng vì một lý do nào đó, NH sẽ bán trái phiếu đi để chuyển hướng đầu tư hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán. Ngược lại, NH đầu tư mua trái phiếu dài hạn với mục đích đầu tư ngắn hạn, nhưng
do giá trái phiếu đã đầu tư liên tục gia tăng nên có thể quyết định nắm giữ chúng trong dài hạn để hưởng chênh lệch giá trái phiếu.
- Theo thị trường đầu tư, đầu tư trái phiếu của NHTM bao gồm: đầu tư trái phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, đầu tư trái phiếu chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán bán tập trung; đầu tư trái phiếu phát hành lần đầu trên thị trường chứng khoán sơ cấp, mua lại trái phiếu của các pháp nhân và cá nhân trên thị trường chứng khoán thứ cấp (giao dịch outright, repos…).
2.2.3. Mục đích và đặc điểm hoạt động đầu tư trái phiếu của ngân hàng thương mại
2.2.3.1. Mục đích
Các NHTM ngày nay tham gia vào lĩnh vực đầu tư trái phiếu nhằm các mục
tiêu:
Thứ nhất, ổn định thu nhập của ngân hàng
Các NHTM tham gia đầu tư trái phiếu nhằm tạo cân bằng về thu nhập trong
chu kỳ kinh doanh. Khi thu nhập từ hoạt động tín dụng giảm xuống thì thu nhập từ đầu tư chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng có thể bù đắp lại.
Thứ hai, bù trừ rủi ro tín dụng
Trái phiếu nhìn chung là loại chứng khoán có đặc trưng bởi tính an toàn, ổn định, khả năng thanh khoản cao, đặc biệt là các trái phiếu do Chính phủ phát hành như: trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc Nhà nước…. Việc nắm giữ trái phiếu trong danh mục tài sản có thể giúp các NHTM cân bằng với rủi ro tín dụng. NHTM thường nắm giữ một lượng tín phiếu kho bạc Nhà nước khá lớn, vì khi phát hành công cụ này thường chỉ định các NHTM tham gia đấu thầu nhằm thực hiện các mục tiêu của Chính phủ.
Thứ ba, cung cấp dự trữ cho ngân hàng
Vì trái phiếu có thể dễ chuyển đổi thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hiện hành, hoặc có thể được dùng để cầm cố, vay vốn bổ sung cho NHTM, trong khi các khoản tín dụng không dễ dàng chuyển đổi thành tiền trước thời điểm đáo hạn một khi ngân hàng cần tiền khẩn cấp.
doanh
Thứ tư, cung cấp một sự đa dạng hoá về mặt địa lý trong hoạt động kinh
Thông thường khi triển khai các dịch vụ ngân hàng truyền thống phải gắn với
địa bàn hoạt động, phân vùng và hướng tới một tập khách hàng nhất định. Chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng thường xuất phát từ nhiều khu vực khác nhau và trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Chính vì thế hoạt động đầu tư trái phiêú cho phép ngân hàng đa dạng hóa đầu tư và lợi nhuận của nó trên phương diện địa lý và lĩnh vực ngành nghề một cách có hiệu quả hơn.
Ngoài các mục tiêu trên, hoạt động đầu tư của NHTM còn nhằm các mục đích như:
- Giảm nghĩa vụ nộp thuế của ngân hàng. Theo luật pháp của một số nước thì thu nhập có được từ đầu tư chứng khoán đặc biệt là chứng khoán nợ (trái phiếu) không phải nộp thuế. Do đó, đây là khoản đầu tư bù trừ thu nhập chịu thuế.
- Tạo ra tuyến phòng thủ cho ngân hàng: Nhằm ngăn ngừa những thiệt hại mà có thể là hậu quả của sự thay đổi lãi suất trên thị trường.
- Đem lại tính năng động cho danh mục tài sản: Không như phần lớn các khoản vay, các trái phiếu đầu tư có thể được mua và bán nhanh chóng nhằm mục đích tái cơ cấu các tài sản có của ngân hàng để phù hợp với điều kiện thị trường hiện tại.
- Tăng cường hiệu quả của ngân hàng: Những trái phiếu có chất lượng ngân hàng đang nắm giữ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
2.2.3.2. Đặc điểm
Là một hoạt động đầu tư chứng khoán, đầu tư trái phiếu của NHTM cũng có đầy đủ các đặc điểm của hoạt động đầu tư chứng khoán, đó là:
- Thứ nhất, đầu tư trái phiếu là hoạt động đầu tư tài chính linh hoạt do trái phiếu thường có tính thanh khoản cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. Xuất phát từ tính thanh khoản của trái phiếu, ngân hàng có thể linh hoạt hóa trong việc đầu tư và rút vốn đầu tư dưới hình thức mua và bán trái phiếu trên thị trường.
- Thứ hai, đầu tư trái phiếu của NHTM được thực hiện trên cơ sở các giao
dịch trực tiếp với tổ chức phát hành trái phiếu riêng lẻ, qua đại lý phát hành, hoặc được thực hiện thông qua các trung gian tài chính (quỹ đầu tư, công ty chứng khoán) với các trái phiếu chào bán ra công chúng.
- Thứ ba, hoạt động đầu tư trái phiếu phải tuân thủ các quy định của thị trường về trình tự, thủ tục đầu tư, các quy định về điều kiện để được cấp phép thành viên giao dịch, thành viên đấu thầu, nhà tạo lập thị trường...
- Thứ tư, ngoài việc tuân thủ các quy định chung trong đầu tư trái phiếu, là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngân hàng còn có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của NHTƯ/ NHNN đối với lĩnh vực kinh doanh này. Xét về bản chất, đầu tư là hoạt động chính của ngân hàng đầu tư, không phải của NHTM. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển kinh tế thế giới hiện nay, hầu như không còn có những quy định phân biệt rạch ròi ranh giới giữa ngân hàng đầu tư và NHTM. Hầu hết các ngân hàng hiện nay đều thực hiện chiến lược đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm hướng tới mục tiêu đa dạng hóa thu nhập để giảm thiểu rủi ro tập trung.
Mặc dù vậy, để hạn chế, hoặc ngăn chặn các NHTM hoạt động sai bản chất, tùy theo thực tế phát triển kinh tế và mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kì, NHTW/NHNN một số nước (nhất là các nước có mô hình tổ chức NHTW/NHNN trực thuộc chính phủ) thường ban hành các điều kiện và quy định về giới hạn đầu tư trái phiếu ở các mức độ cao thấp khác nhau. Thông thường, đó là các quy định về giới hạn tỉ lệ giá trị trái phiếu ngân hàng đầu tư trên vốn điều lệ, tỉ lệ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực có nguy cơ rủi ro cao, tỉ lệ đầu tư trái phiếu của các tổ chức tín dụng khác…
2.2.4. Thu nhập và rủi ro trong đầu tư trái phiếu của ngân hàng thương mại
● Thu nhập trong đầu tư trái phiếu
Thu nhập là mục đích của đầu tư. Vì vậy, trước khi ra quyết định đầu tư, NHTM luôn quan tâm tính toán, phân tích các lợi ích đạt được khi đầu tư trái phiếu. Thông thường, thu nhập trong đầu tư trái phiếu gồm: lợi tức trái phiếu và chênh lệch giá trái phiếu trên thị trường. Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể lựa chọn phương án sau khi đầu tư trái phiếu của các tổ chức tín dụng (TCTD) khác sẽ tìm