định tỷ lệ tài chính căn cứ trên mức độ ảnh hưởng của rủi ro.
Ba là, so sánh với rủi ro kỳ vọng: theo đó, dữ liệu sự cố có thể sử dụng cho việc kiểm tra liệu đánh giá rủi ro kỳ vọng. Tùy thuộc vào cách thức đánh giá, những thông tin cần thiết sẽ được thu thập, phân loại và sử dụng cho đánh giá cụ thể. Mô hình đánh giá sẽ quyết định những loại thông tin nào sẽ được sử dụng. Chẳng hạn, nếu sử dụng mô hình xác định yếu tố rủi ro, người thực thiện đánh giá cần có những dữ liệu về sự kiện tổn thất. Thông tin này được xác định là đầu vào cho quá trình xây dựng khẩu vị rủi ro. Quy trình quản trị rủi ro tổn thất có thể hỗ trợ cho việc giám sát khẩu vị rủi ro bằng cách thu thập thông tin đối với những nhóm tổn thất chính một cách cụ thể. Trong trường hợp này, người thực hiện đánh giá cần thu thập những thông tin khác như gian lận thẻ tín dụng, lỗi quy trình,…
Bốn là, mô hình vốn - thu thập dữ liệu sự cố tổn thất trong quá khứ sẽ giúp cho Ngân hàng tiếp cận tới phương pháp tính vốn nâng cao trong công tác xây dựng mô hình tính vốn.
Với sự mở rộng hoạt động và qui mô hoạt động của NHTM nước ta, khía cạnh truyền thông đang trở nên quan trọng hơn, đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển của công nghệ tin học, internet và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo đã xuất hiện nhiều hơn trong nhiều lĩnh vực, kể cả cung cấp dịch vụ, bao gồm cả truyền thông trong nội bộ và truyền thông với bên ngoài của các NHTM.
Về mặt kỹ thuật, những thay đổi của môi trường hoạt động trong nước và trên Thế giới đòi hỏi NHTM phải có những giải pháp về kỹ thuật như:
Một là, đầu tư trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại. Các NHTM cần đầu tư theo chiều sâu vào các thiết bị như hệ thống mạng nội bộ, phần mềm tin học, đặc biệt là những phần mềm lõi giúp cho quá trình xử lý nghiệp vụ liên quan tới thẩm định, quản lý dự án, khách hàng, cập nhật thông tin,…nhanh chóng, chính xác và an toàn.
Hai là, hoàn thiện việc thu thập thông tin: Việc hoàn thiện việc thu thập thông tin tập trung vào nguồn thông tin. NHTM cần đa dạng hóa nguồn thông tin thu thập để đảm bảo thông tin thu được tin cậy, đa dạng, phù hợp và đúng thời điểm. Những nguồn thông tin thu thập có thể từ hồ sơ vay vốn, điều tra tại chỗ, từ
chứng từ lưu trữ trong hồ sơ của hệ thống ngân hàng, từ những ngân hàng khác, từ Trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro được NHNN thành lập, từ doanh nghiệp, từ báo chí,…Sau khi thu thập, việc quản lý thông tin cần đảm bảo tính khoa học, an toàn và kịp thời cung cấp khi cần thiết.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn Thiện Kiểm Soát Nội Bộ Phải Dựa Trên Nền Tảng Quản Trị Công Ty Và Quản Trị Rủi Ro Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hiệu Lực Yếu Tố Đánh Giá Rủi Ro Trong Kiểm Soát Nội Bộ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hiệu Lực Yếu Tố Hoạt Động Kiểm Soát Trong Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Đối Với Hiệp Hội Ngân Hàng Việt Nam
- Hoàn thiện hoạt động kiểm soát nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 25
- Thống Kê Các Ngân Hàng Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
Ba là, hoàn thiện việc thiết lập và xử lý lượng thông tin từ nhiều nguồn. Để thực hiện, NHTM cần: Đẩy nhanh quá trình tin học hóa, thiết lập những phần mềm quản lý hiện đại, toàn diện, thúc đẩy quá trình lưu trữ, xử lý thông tin cho phân tích, đánh giá khách hàng; Xây dựng bộ phận chuyên nghiên cứu và xử lý nguồn thông tin để có thể phân loại, sắp xếp thông tin khoa học, chất lượng theo yêu cầu sử dụng; Liên kết để trao đổi và chia sẻ thông tin liên thông giữa các NHTM trong quan hệ với thông tin của khách hàng, từ đó làm giảm rủi ro.
3.3.5. Giải pháp hoàn thiện hiệu lực của yếu tố Giám sát trong kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Từ kết quả đánh giá và phân tích nguyên nhân trình bày trong Chương 2, để cải thiện hiệu lực của yếu tố Giám sát trong KSNB của các NHTM Việt Nam thực hiện những giải pháp cụ thể sau:
i). Phát triển công cụ đánh giá tác động của mỗi yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội với hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ cho các ngân hàng
Như đã nêu trong Chương Tổng quan, một trong những mục tiêu của Luận án là xác định cách thức đánh giá thực trạng những yếu tố cấu thành KSNB tác động tới hiệu lực của KSNB trên cơ sở Khung COSO. Luận án đã chỉ ra những mục tiêu cụ thể gắn hướng tới đánh giá tác động này cũng như cung cấp một công cụ đánh giá chi tiết. Dựa trên Khung COSO, tác giả đã hình thành một khung đánh giá theo 5 yếu tố cấu thành KSNB, cũng như là hình thành cơ sở đánh giá chi tiết theo mỗi yếu tố. Đối với Môi trường kiểm soát, tác giả xây dựng những câu hỏi đánh giá tương ứng với 7 tiêu chí lớn trong quan hệ với Môi trường kiểm soát gồm:
Tính chính trực và giá trị đạo đức
Cam kết về năng lực
HĐQT và BKS
Triết lý quản trị và phong cách hoạt động
Cấu trúc tổ chức
Phân quyền và phân nhiệm
Chính sách và thủ tục về nguồn nhân lực.
7 tiêu chí lớn sẽ tiếp tục được phân chia thành hệ thống các chỉ tiêu nhỏ có liên quan và thực hiện đánh giá. Những nội dung đánh giá cụ thể được tác giả đề xuất thể hiện trong Phụ lục 1, Phần B.
Việc thực hiện đánh giá đối với hiệu lực KSNB được thực hiện tương tự đối với những yếu tố còn lại của KSNB trên cơ sở Khung kiểm soát COSO: Giám sát; Hoạt động kiểm soát; Thông tin và Truyền thông; Đánh giá rủi ro. Những nội dung đánh giá cụ thể được tác giả đề xuất sử dụng theo nội dung này trình bày chi tiết trong Phụ lục 1, Phần B.
ii). Cùng với hoạt động kiểm soát, giám sát phải thực hiện công tác kiểm tra
đối với các hoạt động trên cơ sở những qui trình và nội dung kiểm tra khuôn mẫu
Để cải thiện hiệu lực giám sát, các NHTM phải hoàn thiện những nội dung kiểm tra, đặc biệt đối với những hoạt động then chốt, những hoạt động có tính khuôn mẫu cao, những hoạt động có nguy cơ cao hơn. Điển hình cho việc xây dựng nội dung kiểm soát là hoạt động tín dụng. Từ kết quả đánh giá kết quả khảo sát và phát hiện những vấn đề liên quan trong Chương 2 cho thấy việc xác định nội dung kiểm tra cần tập trung vào những vấn đề sau đây nhằm phát phát hiện những vấn đề của kiểm soát và có phương hướng sửa chữa kịp thời:
Kiểm tra định kỳ đối với các hình thức cấp tín dụng cho khách hàng
Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng, cụ thể. Kiểm tra chất lượng của tài sản đảm bảo, kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp nhằm đảm bảo ngân hàng có đủ thẩm quyền hợp pháp để sở hữu tài sản bảo đảm tín dụng với người vay trước tòa. Cán bộ tín dụng phải luôn tuân thủ việc đánh giá điều kiện tài chính, tính tuân thủ các điều kiện khi cấp tín dụng và dự báo những dấu hiệu thay đổi bất thường của khách hàng vay. Cán bộ tín dụng phải đánh giá khách quan, tin cậy khoản tín dụng đã cấp cho khách hàng có tuân thủ chính sách tín dụng của ngân hàng và những tiêu chuẩn có liên quan qui định không. Cán bộ tín dụng cần đề xuất tiếp tục cấp tín
dụng hoặc hạn chế cấp tín dụng hoặc không cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên những phát hiện từ giám sát.
Đối với những khoản vay lớn, chiếm tỷ trọng lớn so với tổng dư nợ của đơn vị, việc giám sát đặt ra yêu cầu cán bộ tín dụng phải kiểm tra thường xuyên, nghiêm túc những rủi ro với khoản vay này.
Kiểm tra việc cấp tín dụng hoặc thay đổi chính sách cấp tín dụng trong trương fhợp ngân hàng đnáh giá thấy cần thiết, đặc biệt trong những trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống, ngành nghề liên quan tới doanh nghiệp khách hàng đang gặp khó khăn,…
Ngoài ra, giám sát cần quan tâm và hoàn thiện quy trình kiểm tra tín dụng sau khi cho vay. Điều này đặc biệt quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng của NHTM.
iii). Nâng cao vai trò tạo giá trị gia tăng của kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam
Với sự phát triển của các công cụ quản lý, nhà quản trị các NHTM ngày càng có nhiều những lựa chọn phù hợp hơn cho công việc, đặc biệt là quản trị rủi ro. Kiểm toán nội bộ được xem là phương sách trợ giúp quản trị đạt được mục tiêu. Trong thực hiện kiểm toán, kiểm toán nội bộ thực hiện đánh giá kiểm soát và đề xuất cải thiện hiệu lực KSNB. Với vait rò như vậy, kiểm toán nội bộ được xem như một chức năng đánh giá độc lập với KSNB hay chức năng giám sát. Theo kết quả khảo sát, hoạt động giám sát từ phía bộ phận kiểm toán nội bộ của NHTM còn hạn chế trên nhiều khía cạnh. Để giải quyết vấn đề và nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ trong các NHTM Việt Nam cần thực hiện song song những giải pháp về tổ chức và thực hiện.
Về kiểm toán viên: Các NHTM cần tăng cường thêm nhân lực để thực hiện kiểm tra kiểm toán toàn diện tại các đơn vị nhằm bảo đảm các mặt hoạt động trong toàn hệ thống được kiểm tra kiểm soát thường xuyên và phát hiện kịp thời những sai sót. Theo đó, nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động giám sát các kiểm soát chính là các chuyên viên giỏi tại các NHTM về lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán hoặc các NHTM có thể tuyển trực tiếp nguồn từ các chuyên viên cao cấp giỏi về chuyên môn và có kinh nghiệm hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với các tổ chức tín dụng. được thực hiện tại phòng Kiểm toán nội bộ. Kiểm toán viên nội bộ
cần được trang bị những chuyên môn cơ bản. Những tiêu chuẩn chuyên môn bao gồm trình độ học vấn lẫn kinh nghiệm. Về mặt học vấn phải có được các chứng chỉ bằng cấp theo quy định, về mặt kinh nghiệm cần đã từng tham gia các hoạt động nghiệp vụ hoặc ít nhất tiếp xúc nhiều với chúng. Ngoài những tiêu chuẩn chuyên môn cơ bản nhưtrên sẽ rất hữu ích nếu kiểm toán viên nội bộ có thêm tiêu chuẩn chuyên môn đặc biệt như trình độ thông thạo đặc biệt về những lĩnh vực nghiệp vụ cụ thể ví dụ kỹ năng về máy tính, nhiều dạng quy trình sản xuất khác nhau. Nhấn mạnh các phẩm chất cá nhân của kiểm toán viên nội bộ: sự chính trực công tâm, sự tận tụy vì lợi ích của đơn vị, thái độ khiêm tốn, tự tin nghề nghiệp…và những phẩm chất cá nhân trực tiếp tạo dựng năng lực chuyên môn cho kiểm toán viên nội bộ như ham tìm hiểu, thái độ phê bình, tỉnh táo, kiên trì và nghị lực…Hiện nay, tại Việt Nam vẫn chưa có tổ chức Hiệp hội nghề nghiệp riêng cho KTVNB trong khi nhu cầu trao đổi thông tin, bổ sung kiến thức của các KTVNB ngày càng lớn. Hơn nữa, sựphát triển kinh tế thúc đẩy sự phát triển về số lượng của đội ngũ KTVNB. Để trao đổi thông tin và kiếm thức, các KTVNB chủ yếu sử dụng các diễn đàn trên mạng. Việc lập các nhóm KTVNB hoạt động trong các doanh nghiệp để trao đổi nghiệp vụ cũng hoàn toàn mang tính tự phát. Do đó, đòi hỏi các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp phải xem xét việc hình thành một tổ chức hiệp hội riêng cho KTVNB ở Việt Nam và sử dụng các hình thức hoạt động linh hoạt để là cầu nối giao lưu trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc hiệu quả.
Về cơ cấu tổ chức: Mô hình tổ chức KTNB phải đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan và chuyên nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng, bộ máy KTNB mang tính chất hiện đại sẽ theo mô hình khu vực nhưng vẫn tập trung về Hội sở. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý tập trung các rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh, và tạo ra sự chuyên môn hóa tại các chi nhánh – với việc thực hiện như chính bộ phận “sale” thực thụ. Và khi đó vấn đề quản lý rủi ro hay những thẩm định, đánh giá sẽ thực sự độc lập và khách quan hơn khi không tham gia vào quy trình nghiệp vụ trên thực tế. Hiện nay, đa phần các NHTM Việt Nam đưa ra cơ cấu tổ chức KTNB chưa phù hợp với quy mô hoạt động của mình: vẫn có KTNB trực thuộc chi nhánh làm giảm tính
độc lập trong kiểm soát và kiểm tra, chưa quản lý tập trung, số lượng KTNB còn hạn chế. Điều này dẫn đến việc bộ phận KTNB có thể bỏ sót, không kiểm toán nhiều chi nhánh, phòng giao dịch...trong toàn hệ thống, KTNB vì thế mà không thể đánh giá được chính xác tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Về tổ chức thực hiện: Trong môi trường tin học hóa, các hoạt động của ngân hàng hiện nay đều được hiện đại hoá và ứng dụng công nghệ thông tin. Việc phát triển và duy trì một đội ngũ KTNB có chuyên môn về lĩnh vực công nghệ thông tin là rất quan trọng. Trước hết, trong ngắn hạn bộ phận kiểm toán nội bộ của các ngân hàng cần phải có khả năng thực hiện kiểm toán đối với các cấu phần chính của các kiểm soát chung về công nghệ thông tin bao gồm: các chính sách chung, quy trình phát triển hệ thống, hoạt động về máy tính, những thay đổi về chương trình và truy cập tới các chương trình và dữ liệu. Do đó, bộ phận kiểm toán nội bộ cần có khả năng kiểm toán các kiểm soát tự động và sử dụng các kỹ thuật kiểm toán có sự trợ giúp của máy tính để hỗ trợ việc kiểm toán thông thường và kiểm toán tiếp tục. Các đơn vị nên xem xét việc sử dụng phần mềm kiểm toán để nâng cao hiệu quả hoạt động của kiểm toán nội bộ. Tính kinh tế của giải pháp này sẽ được chứng minh rõ nét thực hiện kiểm toán toàn bộ các đơn vị theo đúng kế hoạch đã được duyệt từ đầu năm, và kiểm toán soát xét báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm nhằm mục đích đảm bảo có những phát hiện và phân tích rủi ro một cách kịp thời từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Xét trong một năm tài chính thì việc kiểm toán soát xét báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm là sự kết hợp giữa kiểm soát và giám sát các kết quả đạt được của 6 tháng và cũng chính là quá trình giám sát trong việc thực hiện các nghiệp vụ của 1 năm tài chính.
Tăng cường làm việc trực tiếp với các đơn vị nhằm nắm bắt kịp thời tình hình hoạt động kinh doanh, công tác quản lý điều hành, công tác quản lý rủi ro để kịp thời chỉ đạo, hỗ trợ;
Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả công tác giám sát từ xa; Tăng cường hơn nữa công tác giám sát, đôn đốc hoạt động tự kiểm tra chấn chỉnh của các đơn vị trong toàn hệ thống;
Tiếp tục phối hợp hoạt động chặt chẽ hơn nữa với HĐQT và Ban Điều
hành để đưa Ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả.
Các nhà quản trị NH cần nhận thức được một trong những điều cơ bản trong kinh doanh đó là: NH thường xuyên đối phó với các rủi ro ngày càng phức tạp về hoạt động, chiến lược, thị trường, hay các rủi ro trong các quy trình nghiệp vụ....các rủi ro này ngày càng biến đổi khiến doanh nghiệp khó khăn trong việc đánh giá, đo lường và đối phó với các rủi ro. Vì vậy, các nhà quản trị cần có sự trợ giúp kịp thời của đội ngũ chuyên gia có năng lực thực hiện đánh giá, kiểm tra độc lập để đưa ra những tư vấn, cảnh báo và hỗ trợ nhà quản trị doanh nghiệp trong việc kiểm soát, điều hành doanh nghiệp và ra quyết định nhanh chóng kịp thời. Do đó, KTNB dần được xem là một công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp kiểm soát các rủi ro của mình thông qua chức năng đảm bảo và tư vấn cho ban giám đốc và cho các chủ sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi các nhà quản trị nhận thức được vai trò to lớn của KTNB thì bài toán quan trọng đặt ra là KTNB cần được xây dựng và triển khai hiệu quả trên thực tế, tránh để xảy ra tình trạng mang tính hình thức mà hoạt động kém hiệu quả thì lúc này lại để lại hậu quả và tác động kép cho NH về lãng phí. Để thực hiện được điều này, các nhà quản trị cần xác định chi phí phù hợp cho việc thiết lập bộ phận KTNB, chi phí duy trì triển khai thực hiện bộ phận này, lập kế hoạch kiểm toán khoa học, hợp lý. Do bị giới hạn và chi phối bởi bài toán lợi ích và chi phí, nên các nhà quản trị doanh nghiệp cần nhìn nhận và đánh giá lợi ích thu được trong dài hạn. Hỗ trợ cho điều này, các nhà quản trị cần thường xuyên đánh giá hiệu quả của chính bộ phận KTNB trong tổ chức. Định kỳ hàng quý, nhà quản trị có thể yêu cầu KTNB báo cáo về tình hình hoạt động, những kết quả đạt được và tiến độ thực hiện so với kế hoạch kiểm toán năm đã được phê duyệt. Cuối mỗi năm nhà quản trị có thể tổng kết các chi phí đã đầu tư và thực hiện để bộ phận KTNB thực hiện nhiệm vụ và những sai phạm, lãng phí đã được KTNB phát hiện, hoặc ước tính về thiệt hại của sai phạm, hoặc rủi ro nếu không được các KTNB phát hiện kịp thời...từ đó để nhận thấy vai trò của KTNB và cũng tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động của KTNB thông qua việc kiểm tra đột xuất hoặc cũng có thể mời kiểm toán độc lập vào thẩm định và kiểm tra kết quả của KTNB.
3.4. Điều kiện thực hiện những giải pháp cải thiện hiệu lực kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam
3.4.1. Về phía nhà nước
Hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau trong nền kinh tế. Do đó, để đạt được hiệu lực của KSNB trong mỗi NHTM cần có sự hỗ trợ của nhà nước trong quan hệ với các cơ quan hữu quan cũng như sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Những yếu tố cần cải thiện dưới góc độ vĩ mô sẽ tác động tích cực tới hiệu lực các yếu tố của KSNB trong các NHTM Việt Nam gồm:
Một là, cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ ổn định: Sự ổn định kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống NHTM. Ổn định kinh tế vĩ mô tác động tích cực tới các doanh nghiệp khác, từ đó ảnh hưởng tới các NHTM. Khi kinh tế ổn định củng cố niềm tin của người dân vào đồng tiền Việt Nam, từ đó tác động tới các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các NHTM.
Hai là, hoạt động của NHTM nói riêng và các ngân hàng nói chung cần có môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ. Khung pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện từng bước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính cần có những thay đổi mang tính đột phá hơn, mang tính hệ thống và đồng bộ. Những thay đổi cần có liên quan tới vấn đề này như: Quy định liên quan tới bảo đảm tiền vay cho hoạt động tín dụng và huy động vốn; Đảm bảo an toàn cho người gửi tiền cũng như sự ổn định chung cho nền kinh tế; Qui định liên quan tới công bố thông tin tài chính doanh nghiệp nhất quán và phù hợp với thông lệ chung; Sửa đổi và ban hành những bộ luật, văn bản liên quan tới hoạt động ngân hàng cho phép phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng,…
Ba là, Hoàn thiện cơ sở hạ tầng về thông tin kinh tế thống nhất. Hiện tại, sự bất đối xứng của thông tin dẫn tới những vấn đề phức tạp phát sinh trong quan hệ với các giao dịch kinh tế. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp cụ thể nhằm gián tiếp tạo ra sự thống nhất, kịp thời của thông tin bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại, cho phép liên thông thông tin giữa những lĩnh vực khác nhau, dễ dàng