nhận diện sớm rủi ro gắn với hoạt động tín dụng như sau:
Sau khi NHTM giải ngân khoản vay, đơn vị cần thực hiện quản lý khoản vay thông qua đánh giá định kỳ khách hàng. Nhận diện các rủi ro có được từ phân tích thông tin và tình hình hoạt động của khách hàng vay, tình hình tài chính của khách hàng vay, tình trạng tài sản thế chấp. Tiếp theo, đánh giá lại việc cấp tín dụng cho khách hàng hoặc tài sản đảm bảo cho khoản vay nếu khách hàng để nhận diện rủi ro nếu có những dấu hiệu như sau (Bảng 3.1):
Bảng 3.1: Dấu hiệu nhận diện rủi ro của khách hàng
Chi tiết | |
Thông tin kế toán Thông tin về tổ chức Dấu hiệu pháp lý Dấu hiệu khác | Báo cáo tài chính của khách hàng cho thấy giá trị tài sản giảm bất thường; Báo cáo được cung cấp không đúng thời gian, thiếu chủng loại, trình bày không theo qui định Tăng giá trị phải thu khách hàng lớn hơn tăng giá trị của chỉ tiêu doanh thu; Việc tăng giảm không mang tính qui luật; Giá trị nợ phải trà tăng đột biến; Giá trị tồn kho tăng đột biến; Kéo dài thời gian tính khấu hao tài sản cố định Giá cổ phiếu của công ty khách hàng thay đổi bất lợi Thay đổi cơ cấu nhân sự cấp cao; Khách hàng cá nhân thay đổi nơi công tác Giảm lương, chậm nộp thuế và những nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và người lao động; Dấu hiệu chủ nợ khác đăng ký quyền nắm giữ những tài sản thế chấp; Chủ tài sản, người bảo lãnh cấp tín dụng có dấu hiệu bất thường; Liên quan tới những vấn đề pháp lý khác. Liên lạc với khách hàng bị gián đoạn hoặc có thay đổi mà không được thông báo trước. Cảnh báo của kiểm toán độc lập hoặc tổ chức đánh giá độc lập khác về tình hình tài chính hoặc những vấn đề chưa được xác định (tiềm tàng). |
Có thể bạn quan tâm!
- Yêu Cầu Cải Thiện Hiệu Lực Kiểm Soát Nội Bộ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Từ Tác Động Bên Ngoài
- Hoàn Thiện Kiểm Soát Nội Bộ Phải Dựa Trên Nền Tảng Quản Trị Công Ty Và Quản Trị Rủi Ro Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hiệu Lực Yếu Tố Đánh Giá Rủi Ro Trong Kiểm Soát Nội Bộ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hiệu Lực Của Yếu Tố Giám Sát Trong Kiểm Soát Nội Bộ Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Đối Với Hiệp Hội Ngân Hàng Việt Nam
- Hoàn thiện hoạt động kiểm soát nội bộ trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tác giả đề xuất)
ii). Đo lường và đánh giá rủi ro: Basel II đã khuyến khích các ngân hàng dùng mô hình nội bộ để đo lường rủi ro riêng biệt của đơn vị. Theo hướng dẫn của NHNN Việt Nam trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, phương pháp đo lường tồn thất được áp dụng chung cho tất cả các NHTM Việt Nam, trên cơ sở đó trích lập dự phòng cho cả 2 loại rủi ro ước tính được và không ước tính được của từng giao dịch cá biệt cũng như toàn danh mục tín dụng. Phương pháp này không tách biệt được được sự khác biệt trong bản chất của tác động dự đoán được với không thể dự đoán được. Hơn nữa cách trích lập dự phòng rủi ro chưa hợp lý, chưa xác định xuất vỡ nợ của từng người vay trên công thức tính và chưa tính đến tương quan giữa các khoản vay trên phạm vi toàn danh mục. Do đó, giải pháp cho vấn đề này cần tập trung vào giải quyết cả 3 nhược điểm nêu trên, cụ thể:
Một là, sử dụng những phương thức đo lường rủi ro truyền thống nhưng nhận thức rõ điều kiện vận dụng của mỗi phương pháp. Những kỹ thuật sử dụng vẫn phát huy hiệu quả cao như:
Phân loại và ước tính khả năng bị mất theo nợ xấu, nợ quá hạn, nợ có rủi
ro cao;
Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ quá hạn hoặc nợ xấu so với tổng dư nợ;
Tỷ lệ các khoản nợ đã cơ cấu lại hoặc khoản nợ xóa so với tổng dư nợ;
Tỷ lệ giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng dư nợ;
Tỷ lệ giứa dự phòng tổn thất tín dụng được trích lập so với tổng dư nợ;
Tỷ lệ mất vốn = Tổng số vốn đã mất và đã xóa trong kỳ / Dư nợ bình quân
trong kỳ;
Tỷ lệ dư nợ cho vay / Tổng tài sản.
Ưu điểm lớn nhất của những cách tính nêu trên là đơn giản nhưng lại hạn chế về khả năng ước tính một cách tin cậy mức độ rủi ro trong tương lai xuất phát từ dữ liệu sử dụng cho ước tính mang tính “quá khứ” mà hạn chế những suy diễn “hiện tại” và tương lai.
Hai là, sử dụng đo lường rủi ro tín dụng theo khung giá trị. Khung giá trị - VAR (Value at risk), giúp các ngân hàng có thể ước tính tổn thất tín dụng trong một
chu kỳ dinh doanh từ đó có thể xác định mức vốn cần thiết để có thể “chống” rủi ro nếu chu kỳ kinh doanh không thuận lợi. Theo cách tính này, VAR của một danh mục được chia thành (1) Tổn thất ước tính được và (2) Tổn thất không ước tính được.
(1) Tổn thất ước tính được (Expected Loss - EL) là mức tổn thất trung bình có thể tính toán được từ những dữ liệu thống kê. EL được xem là mức tổn thất mà NHTM “kỳ vọng” sẽ xảy ra. Do đó, NHTM có thể sử dụng chỉ tiêu này làm chuẩn để ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro cho từng khoản vay mỗi khách hàng. Basel II [76] đã gợi ý cách xác định EL như sau:
EL mỗi khoản vay = LGD*PD
EL của ngân hàng =LGD*PD*EAD
Trong đó:
EL là tổn thất dự kiến tính theo % hoặc giá trị tổn thất bằng tiền
LGD (Loss given default) là tổn thất của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ
PD (Probability of Default) là xác suất khách hàng không trả được khoản nợ
EAD (Exposure at Default) là dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được khoản nợ vay.
(2) Tổn thất không thể ước tính được (UL) là giá trị của độ lệch chuẩn so với giá trị tổng thất ước tính được. Tổn thất không thể ước tính được có thể bù đắp bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, điều này đem đến những rủi ro đối với ngân hàng nên các ngân hàng luôn thận trọng đáp ứng khả năng tổn thất không thể ước tính được. Xác định tổn thất không thể ước tính được đối với mỗi khoản vay trên từng khách hàng như sau:
UL mỗi kℎoản ray = ƒEDF(I − EDF) ∗ LGD
UL của ngân hàng = ƒEDF(I − EDF) ∗ LGD * EAD
Trong đó:
EDF là xác suất vỡ nợ “kỳ vọng” của khoản vay trên mỗi khách hàng
EAD là dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ vay
LGD là tổn thất của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ được khoản vay.
Ngoài ra, ngân hàng có thể sử dụng mô hình Creditmetrics [51], mô hình KVM-Merton [62] trong những khuyến nghị của Basel II. Nhìn chung áp dụng mô hình lượng hóa nêu trên là phức tạp, đòi hỏi chi phí cao. Tuy nhiên, áp dụng mô hình cho phép các NHTM có thể ước tính một cách tín cậy rủi ro, từ đó có cách thức phòng, và chống thích hợp, giúp hoạch định chiến lược thích hợp trong quản trị rủi ro trong các ngân hàng tốt hơn, đặc biệt khi môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi.
3.3.3. Giải pháp hoàn thiện hiệu lực yếu tố Hoạt động kiểm soát trong hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trên cơ sở kết quả đánh giá về các yếu tố trong Hoạt động kiểm soát của KSNB trong các NHTM Việt Nam, để cải thiện hiệu lực của Hoạt động kiểm soát cần tập trung vào hoàn thiện những yếu tố cụ thể sau đây:
i). Cải thiện hoạt động kiểm soát nội bộ kế toán: Việc thực hiện tốt công tác an ninh, bảo mật cho các dịch vụ ngân hàng chính là bảo vệ lợi ích của ngân hàng và trên hết là bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Đảm bảo an toàn thông tin là sự kết hợp giữa con người, công nghệ, chính sách và quan trọng là việc đảm bảo an toàn thông tin là một quá trình không kết thúc; Đảm bảo an toàn thông tin là một hệ thống tổng thể các giải pháp bảo vệ theo chiều sâu: Bảo vệ lớp dữ liệu, lớp ứng dụng, lớp máy trạm, lớp mạng, lớp vật lý,... Việc xây dựng hệ thống lõi là cần thiết cho các ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng. Tuy nhiên, việc xây dựng cần tính tới những yếu tố của Việt Nam, đặc biệt là một hệ thống kế toán đang có những thay đổi để tiến tới hội nhập theo Chuẩn mực lập báo cáo tài chính (IFRS). Bên cạnh chú trọng vào công nghệ, cần quan tâm tới những kiểm soát thủ công nhưng lại tiện lợi và hiệu quả, đặc biệt là trong môi trường có nguy cơ gian lận của nhân viên cao. Thực tế những thất bại trong kiểm soát cho thấy việc ứng dụng công nghệ trong kiểm soát cũng có những giới hạn. Do đó, những kiểm soát “không khuôn mẫu” có thể trở nên vô cùng quan trọng đối với hoạt động kế toán - thực hiện chức năng cung cấp thông tin với qui trình xử lý phức tạp.
ii). Hoàn thiện kiểm soát nội bộ các qui trình hoạt động trong các ngân hàng thương mại Việt Nam: Theo tác giả, việc hoàn thiện liên quan tới KSNB đối với các hoạt động khác phải dựa trên kết quả đánh giá thực trạng KSNB. Dựa trên kết quả khảo sát, NHTM Việt Nam cần hoàn thiện những hoạt động kiểm soát chính trong chủ đề này như sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng: NHTM Việt Nam cần xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng đầy đủ, khoa học, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Để thực hiện, các NHTM cần ban hành hệ thống các tiêu chí và thực hiện một cách thống nhất, cụ thể:
Nhóm tiêu chí tài chính qui định những tiêu chí cụt thể tương ứng với mỗi mức xếp hạn tín dụng như: Vốn điều lệ, vốn pháp định, doanh thu thuần, chỉ tiêu năng lực hoạt động (như vòng quay hàng tồn kho, thời gian thu nợ bình quân, thời gian thanh toán nợ phải trả bình quân, vòng quay tiền), chỉ tiêu cân đối nợ (hệ số nợ/vốn chủ sở hữu, hệ số nợ/tổng giá trị tài sản), các chỉ tiêu hoạt động (hệ số lợi nhuận/vốn chủ sở hữu, lợi nhuận/doanh thu, lợi nhuận/tổng giá trị tài sản,…), chỉ tiêu về thanh khoản (tỷ suất thanh toán nhanh, thanh toán tức thời, thanh toán hiện hành).
Nhóm tiêu chí phi tài chính liên quan tới những qui định về các yếu tố như năng lực quản trị điều hành, giá trị vô hình, giá trị thương hiệu, môi trường kiểm soát nội bộ, triển vọng ngành nghề, vị thế cạnh tranh, tác động của môi trường kinh tế vĩ mô, lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM,…
Hai là, hoàn thiện hệ thống thủ tục thẩm định tín dụng: Sự đổ vỡ của hoạt động cho vay tại nhiều NHTM thời gian qua cho thấy những thủ tục thẩm định cho vay và phân tích tín dụng có những sai sót, hạn chế. Thẩm định liên quan tới nghiên cứu thị trường, thu thập thông tin, phân tích năng lực, tư cách và khả năng tài chính của khách hàng, khả năng cân đối nguồn trả nợ. Đây là cơ sở quan trọng để thiết lập những điều kiện cấp tín dụng và các điều kiện xây dựng thủ tục kiểm soát rủi ro sau này. Bởi vậy, liên quan tới hoạt động kiểm soát, tác giả đề xuất những giải pháp sau đây nhằm cải thiện chất lượng và hiệu lực của hệ thống thủ tục thẩm định tín dụng.
(1). Thủ tục kiểm tra tư cách pháp nhân đối với khách hàng doanh nghiệp: NHTM phải đặt ra qui định kiểm tra tính đầy đủ, trung thực và hợp lệ các nội dung
trong hồ sơ khách hàng. Những qui định về hồ sơ pháp lý kinh doanh, hồ sơ tài chính, hồ sơ vay vốn.
(2). Thủ tục kiểm tra năng lực điều hành của ban lãnh đạo và mô hình tổ chức của khách hàng vay vốn: NHTM cần qui định việc kiểm tra những nội dung này khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng.
(3). Thủ tục kiểm tra năng lực tài chính: Thủ tục cần qui định rõ đối tượng kiểm tra, loại thông tin được kiểm tra và thông tin được khách hàng tiềm năng cung cấp. Bên cạnh đó, cần qui định rõ chủ thể thực hiện kiểm tra năng lực tài chính để tránh trùng lặp và giảm hiệu lực của thủ tục kiểm tra.
(4). Thủ tục kiểm tra thực trạng hoạt động kinh doanh, thị trường của khách hàng vay vốn: Đây là thủ tục quan trọng nhằm xác định rõ lĩnh vực kinh doanh của khách hàng có thuộc đối tượng hạn chế của NHNN và chính sách tín dụng của NHTM trong từng thời kỳ hay không. Thông qua đó, NHTM cũng có thể đánh giá được “đạo đức kinh doanh” của khách hàng, uy tín và thương hiệu của khách hàng vay trên thị trường.
(5). Thủ tục trong xác định phương án vay vốn hoặc dự án vay vốn: NHTM phải có những qui định rõ ràng về thẩm định phương án vay vốn, đánh giá mức độ chắc chắn của nguồn trả nợ, tính hiệu quả của phương án nhằm xác định khoản vay phù hợp, thời gian vay, lịch trả nợ vay. Thủ tục kiểm tra phương án cho vay và và thủ tục kiểm soát dòng tiền từ ngân hàng đến khi khách hàng nhận tiền, sử dụng và trả nwọ ngân hàng. NHTM qui định những điều kiện cho vay phù hợp, ban hành những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Ví dụ, NHTM có thể qui định về tỷ lệ vốn tự có của khách hàng trong khi tham gia phương án kinh doanh, qui định ký cam kết ba bên về việc chuyển doanh thu, mua bảo hiểm hàng hóa,…Ngoài ra, ngân hàng phải qui định về việc trả nợ.
(6). Ban hành qui định về tài sản đảm bảo: Những thiếu sót trong quá trình quản lý tài sản đảm bảo không phải chỉ tập trung ở định giá mà những khía cạnh rủi ro khác có liên quan cũng phát sinh khá phổ biến. Tuy nhiên, rủi ro chủ yếu nằm ở thẩm định tài sản đảm bảo. Theo tác giả, NHTM cần ban hành qui định về thông tin sử dụng cho đnáh giá, xây dựng bảng xếp hạng tín dụng, qui định về nắm giữ tài sản
đảm bảo phù hợp. Những qui định cụ thể có thể áp dụng như: Qui định rõ người đi vay phải là chủ sở hữu tài sản; Cam kết về khả năng phát mại tài sản; Mua bảo hiểm tài sản; qui định về thời điểm, cách thức đánh giá lại tài sản; Thủ tục bảo đảm như ký, đăng ký giao dịch,…
Áp dụng và hoàn thiện kiểm soát phân cấp linh hoạt trong hoạt động kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
iii). Hoàn thiện những thủ tục kiểm soát đặc biệt: Kết hợp các thủ tục kiểm soát để chống lại hành vi gian lận biển thủ tài sản, lạm dụng kiểm soát để chiếm đoạt tài sản. Để thực hiện, theo tác giả các NHTM cần đánh giá và cải thiện việc phân quyền, phân chia trách nhiệm tốt hơn. Đảm bảo sự sự độc lập giữa những chức năng có thể làm tăng nguy cơ rủi ro gian lận như chức năng kế toán - kiểm tra, giám sát, định giá tài sản - cấp tín dụng; phân quyền giữa những nhà quản lý rõ ràng; thực hiện kiểm tra định kỳ với bất thường; thực hiện đánh giá nội bộ.
3.3.4. Giải pháp hoàn thiện hiệu lực yếu tố Thông tin và truyền thông trong hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thông tin và truyền đóng vai trò quan trọng trong tác động vào hiệu lực của KSNB trong các NHTM. Xét trong qui trình quản trị nói chung, thông tin cần thiết cho việc đưa ra quyết định quản trị thích hợp cần khách quan, đầy đủ, phù hợp và kịp thời. Trong quan hệ với quản trị rủi ro, thông tin được tích lũy đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình nhận diện, đánh giá, giải thích và đưa ra quyết định về hành động thích hợp. Bởi vậy, hoàn thiện hệ thống thông tin thông qua đánh giá của khách hàng là giải pháp quan trọng. Nếu kết quả đánh giá cho thấy Thông tin trong KSNB của các NHTM hiện tại xuất phát từ nguồn nội bộ tạo ra những hạn chế trong nhận diện, đánh giá rủi ro, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế tạo ra những ràng buộc trong quá trình hoạt động kinh doanh. Thông tin về khách hàng cần được lưu một cách phù hợp liên quan tới thông tin tín dụng, lịch sử giao dịch với khách hàng, những dữ liệu khác có ảnh hưởng tới việc nhận diện, đánh giả rủi ro liên quan tới một khách hàng. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc thu thập thông tin về khách hàng khắc phục được nhiều hạn chế so
với xử lý thủ công. Theo tác giả, việc lưu giữ thông tin nên phân chia theo những nguồn thu thập và mục đích sử dụng. Một cách cải thiện trong việc thu thập thông tin, tổng hợp thông tin để hỗ trợ cho đối tượng sử dụng là cách làm của kiểm toán viên. Theo cách này, mỗi khách hàng sẽ có một hồ sơ được gán mã, theo dõi trên cơ sở những thông tin được mã hóa khác theo đúng qui định của pháp luật và qui định của ngân hàng. Hồ sơ mỗi khách hàng sẽ được phân chia thành 2 mảng riêng là thông tin chung và thông tin giao dịch hàng năm. Thông tin chung được thu thập và lưu giữ gắn với thông tin chung về khách hàng, những thay đổi có ảnh hưởng tới nhiều năm,…chúng được cập nhật định kỳ. Thông tin giao dịch hàng năm sẽ được cập nhật liên tục, bao gồm những thông tin về giao dịch bình thường và cả những giao dịch đặc biệt. Công nghệ thông tin cho phép lưu trữ nhiều loại thông tin, đảm bảo bảo mật nhưng lại dễ dàng tổng hợp, giám sát, kiểm tra,…Bên cạnh đó, việc hình thành một hệ thống thông tin trong quan hệ với người nhận thông tin cần được phân định rõ. Điều này có quan hệ chặt chẽ với cơ cấu tổ chức, sự phân quyền trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, thông tin từ nguồn bên ngoài liên quan tới chính sách, sự biến động của nền kinh tế, sự thay đổi của đối tác, môi trường kinh doanh của đối tác,…cần được thu thập từ nhiều bên đảm bảo độ tin cậy, lưu trữ khoa học để đảm bảo sẵn sàng cho việc sử dụng tài liệu đúng thời điểm. Một số vấn đề liên quan tới việc thu thập và lưu trữ thông tin nhằm cải thiện chất lượng và sự phù hợp của thông tin cần lưu ý là:
Một là, thông tin cần được cung cấp cho đúng đối tượng. Vì thế, thông tin cần có sự phân loại và phân quyền sử dụng;
Hai là, thu thập dữ liệu cho đánh giá rủi ro. Những dữ liệu sự kiện tổn thất được sử dụng trong công tác chuẩn bị đánh giá rủi ro tổn thất có thể xảy ra. Với tầm quan trọng của việc đánh giá như vậy nên thông tin cần được thu thập một cách thận trọng, cần được thực hiện hàng năm. Thông tin có ý nghĩa quan trọng trong trường hợp này là bản tóm tắt những tổn thất trong 12 tháng vừa qua (số lượng và giá trị của những sự số, danh sách tổng hợp của nhóm gồm những tổn thất lớn nhất) sẽ là yêu cầu cần thiết. Những thông tin tổn thất tại cấp Khối hữu dụng trong việc xác