Ảnh Hưởng Của Đặc Điểm Ngân Hàng Thương Mại Đối Với Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ

ngoài hệ thống KSNB thì ngân hàng vẫn cần phải áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro cần thiết khác. Mặt khác do tác động của môi trường bên trong và bên ngoài nên các rủi ro phát sinh c ng thay đổi theo, vì vậy ngân hàng phải thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các thủ tục kiểm soát để tránh bị lạc hậu, lỗi thời so với sự biến động của các nhân tố phát sinh rủi ro.

2.3. Ảnh hưởng của đặc điểm ngân hàng thương mại đối với hệ thống kiểm soát nội bộ

2.3.1. Ngân hàng thương mại và những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống kiểm soát nội bộ

Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có hoạt động kinh doanh phức tạp nhất trong nền kinh tế. Xét về bản chất thì ngân hàng thương mại là một loại hình trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và đi vay, hoạt động cơ bản của ngân hàng là đi vay để cho vay và đối tượng giao dịch của ngân hàng là các tổ chức kinh tế và cá nhân. Theo điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã [19]

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: (1) Nhận tiền gửi; (2) Cấp tín dụng; (3) Cung ứng dịch vụ thanh khoản qua tài khoản”. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ tài chính. Hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM được biểu hiện qua chênh lệch tỷ giá hối đoái; chênh lệch lãi suất; chuyển đổi kỳ hạn nguồn vốn- tài sản; chuyển đổi rủi ro nguồn vốn – tài sản; tích tụ và tập trung tư bản. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng mang những đặc điểm rất khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác, điều đó đặt ra những yêu cầu cho việc thiết kế và vận hành hệ thống KSNB trong các NHTM, đó là:

Thứ nhất, NHTM là những doanh nghiệp có quy mô rất lớn trên cả góc độ tổng tài sản và vốn chủ sở hữu. NHTM nắm giữ một khối lượng lớn tài sản của nền kinh tế, bao gồm các tài sản tài chính, tiền mặt và các giấy tờ có giá. Đây là các tài sản rất nhạy cảm với các hành vi biển thủ, gian lận, đồng thời giá trị của một số tài sản có thể thay đổi nhanh chóng và khó xác định. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong giá trị của các tài sản này có thể ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu của NHTM. Giá trị lớn và tính nhạy cảm của các tài sản của ngân hàng là một yếu tố làm tăng rủi ro tiềm tàng trên cả phương diện BCTC c ng như các khoản mục, nghiệp vụ của NHTM. Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn và ghi sổ đúng đắn giá trị các tài sản, ngân hàng phải có một hệ thống kho quỹ c ng như các thiết bị bảo vệ an ninh, ngân hàng phải thiết lập các quy trình nghiệp vụ chặt chẽ có sự kiểm tra chéo giữa các bộ phận, thiết lập quyền hạn cho mỗi cá nhân đồng thời hệ thống KSNB phải thực hiện đúng chức năng và trách nhiệm. Hơn nữa, để bảo đảm an toàn tài sản của ngân hàng, hạn chế tối đa sự biển thủ tiền và tình trạng thất thoát vốn tín dụng đòi hỏi hệ thống KSNB phải thiết lập cơ chế phân công, phân nhiệm độc lập trên phạm vi rộng và một loạt các thủ tục kiểm soát chặt chẽ quá trình xử lý nghiệp vụ, tuân thủ nghiêm ngặt việc kiểm tra, đối chiếu hàng ngày và kiểm soát vật chất định kỳ.

Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro đặc thù so với các ngành khác do ngân hàng thường thực hiện các giao dịch lớn và phức tạp về tiền tệ. Hơn nữa, các NHTM liên tục phát triển các sản phẩm mới, những công cụ tài chính mới do sức ép của cạnh tranh, tự do hóa tài chính, sự phát triển của khoa học công nghệ. Các sản phẩm mới có mức rủi ro cao do sự phát triển của chúng thường đi trước những nguyên tắc kế toán và kiểm toán c ng như các quy tắc giám sát khác. Vì vậy, phát triển sản phẩm mới để cạnh tranh là xu hướng tất yếu của các NHTM trong tình hình hiện nay nhưng c ng chính là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và sai phạm ảnh hưởng đến tài chính của ngân hàng. Các rủi ro thường xuất hiện trong hoạt động của ngân hàng bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro tỷ giá. Do đó,

thiết kế và vận hành hệ thống KSNB như thế nào để phát huy tính hiệu quả trong việc giám sát, kiểm soát và ngăn ngừa các rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động của ngân hàng thông qua việc phân tích kỹ lưỡng các khả năng xảy ra rủi ro, loại hình rủi ro, mức độ rủi ro và cách thức quản lý rủi ro của từng loại nghiệp vụ.

Thứ ba, NHTM có quan hệ khách hàng rất rộng lớn và đa dạng. Các khách hàng của ngân hàng gồm khách hàng tiền gửi, khách hàng vay vốn và khách hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của ngân hàng là mối quan tâm rất lớn đối với họ vì nếu ngân hàng có kết quả kinh doanh tốt, môi trường lành mạnh sẽ là những điểm cộng đồng thời gia tăng niềm tin của khách hàng. Ngược lại, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh không tốt sẽ làm giảm uy tín và niềm tin của khách hàng. Từ đặc điểm này đòi hỏi các NHTM phải thiết lập cho mình một hệ thống KSNB có thành phần hệ thống thông tin và truyền thông phải trung thực, minh bạch, kịp thời và chính xác đặc biệt là trong thời đại cách mạng công nghiệp hiện nay.

Thứ tư, phạm vi hoạt động của NHTM rất rộng lớn với mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch khắp cả nước. Bên cạnh đó, khối lượng giao dịch của NHTM rất lớn và đa dạng cả về số lượng và giá trị đòi hỏi phải được xử lý tức thời nhanh chóng và chính xác. Do đó xét trên hai góc độ phạm vi và khối lượng giao dịch của loại hình doanh nghiệp đặc biệt này thì ngân hàng phải có một hệ thống kế toán và KSNB phức tạp dựa trên cơ sở ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin. Mạng lưới chi nhánh rộng kéo theo sự phân quyền lớn và sự phân tán trong chức năng kế toán và quản lý. Hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng thường rất phức tạp, thường phải xử lý các giao dịch tự động, trực tuyến và tức thời theo thời gian thực. Đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ hệ thống quản lý về thời gian đáo hạn và khả năng thanh khoản của các loại tài sản tài chính.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Thứ năm, hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc nhau rất lớn. Đây c ng là đặc điểm khác biệt lớn với các doanh nghiệp khác, đó là rủi ro trong hệ thống ngân hàng có tính lan tỏa rất nhanh. Nếu chỉ một ngân hàng gặp khó khăn trong hoạt động có thể gây ra nguy cơ cho cả hệ thống ngân hàng. Vì vậy, việc bảo đảm an toàn hoạt động của các NHTM là một trong những yếu tố quan trọng

trong việc giữ gìn sự vững mạnh của hệ thống tài chính quốc gia. Đặc điểm này đòi hỏi việc thiết lập và vận hành hệ thống KSNB trong các ngân hàng phải có sự kết nối về mặt thông tin giữa các ngân hàng để đảm bảo an toàn chung của hệ thống một khi có sự cố xảy ra ở bất cứ một ngân hàng nào.

Thứ sáu, hệ thống ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ nhất từ phía các cơ quan quản lý vì các ngân hàng nắm giữ một khối lượng lớn tài sản trong nền kinh tế nhưng hoạt động lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sự sụp đổ của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN phải thực hiện tốt việc giám sát chặt chẽ hoạt động của ngân hàng nhằm quản lý hạn mức rủi ro và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận. Tuy nhiên, Nhà nước quản lý thông qua luật pháp và những quy định trong lĩnh vực ngân hàng c ng thường xuyên thay đổi để phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế. Vì vậy, hệ thống KSNB thiết kế và vận hành phải linh hoạt nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nhưng có thể dễ dàng điều chỉnh khi có sự thay đổi của các luật lệ, quy định.

2.3.2. Nhân tố ảnh hưởng hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại

Hệ thống KSNB được hiểu không phải là một yếu tố mà phải là một tập hợp các yếu tố cùng loại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để nhằm đạt được các mục tiêu đơn vị đã đặt ra. Việc thiết kế và vận hành hệ thống kiểm soát trở nên quan trọng ảnh hưởng tới việc duy trì, sự phù hợp và hiệu lực KSNB. Theo Power (2007), giám đốc và những nhà quản trị cần tập trung nhiều hơn vào việc xem xét những hoạt động kiểm soát được thiết kế và hoạt động như thế nào [72]. Trong hoạt động của NHTM với nhiều tính chất đặc thù thì những vấn đề quan tâm trong thiết kế KSNB cơ bản tập trung vào 3 vấn đề: những yếu tố liên quan tới thiết kế KSNB; những đặc tính ảnh hưởng đến chất lượng KSNB; những yếu tố liên quan tới chất lượng KSNB. Trong nghiên cứu của Rae và Subrananiam (2008), các tác giả đã chứng minh “có một số bằng chứng về việc các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng của thủ tục KSNB… Có một số ít bằng chứng cho thấy môi trường KSNB và những nhân tố tổ chức liên quan có thể ảnh hưởng tới chất lượng của những thủ tục KSNB

như thế nào” [73]. Theo Kinney (2000), sự phức tạp tiềm ẩn của một quá trình KSNB thể hiện chất lượng của KSNB không hề đơn giản [58], đồng thời không có những đặc tính thích hợp cho đo lường chất lượng của KSNB trong thực hành hay nghiên cứu. Theo Power (2007) [72] những phát hiện này có thể bao gồm những khía cạnh được xem xét từ sự trùng lặp quan trọng giữa KSNB và kiểm soát quản lý. Theo Mikes (2009) [66] những phát hiện từ những nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực về kiểm soát trong thời gian gần đây có thể tạo thành một sự pha trộn trong thực hành kiểm soát khác nhau. Do đó, tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hệ thống KSNB dựa trên sự kế thừa về những phát hiện về chất lượng KSNB và những yếu tố liên quan tới chất lượng KSNB, đặc biệt là trong các ngân hàng. Từ nghiên cứu thực tiễn và lý luận đều cho thấy những yếu tố ảnh hưởng tới hệ thống KSNB trong NHTM c ng là những biến ảnh hưởng tới thiết kế KSNB của một doanh nghiệp nói chung. Các yếu tố có thể liên quan tới môi trường bên ngoài trong khi có những yếu tố khác lại chỉ xuất hiện trong nội bộ của ngân hàng đó. Như vậy, có thể chia các biến tác động tới thiết kế hệ thống KSNB thành biến nội bộ và biến bên ngoài. Những biến nội bộ gồm: Mục tiêu của doanh nghiệp; Chiến lược; Quan điểm quản trị; Qui mô của doanh nghiệp; Cấu trúc của doanh nghiệp; Rủi ro. Những biến bên ngoài gồm: Luật pháp và các qui định; Văn hóa kinh doanh; Đặc thù của ngành; Rủi ro chính sách; Khung thực hành nghề nghiệp ; Chuẩn mực thực hành. Tuy nhiên, việc xác định những biến nêu trên c ng mang tính tương đối và những hệ thống KSNB của các doanh nghiệp khác nhau là không giống nhau. Theo Gupta, P. P., & Thomson, J. C. (2006), COSO 1992 cho thấy không thể có những doanh nghiệp có cùng những KSNB tương tự như nhau trừ phi chúng giống nhau [50]. Điều này được chứng minh trong “Lý thuyết ngẫu nhiên”, lý thuyết này giải thích việc thiết kế KSNB sẽ dựa vào những biến theo tình huống khác nhau . Những biến được xác định chung có thể gồm môi trường bên ngoài và những khía cạnh không chắc chắn mà doanh nghiệp phải đối mặt, công nghệ, qui mô, cấu trúc tổ chức, chiến lược và văn hóa quốc gia. Do đó, để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc thiết kế hệ thống KSNB, tác giả dựa trên quan điểm về “sự pha trộn” trong nghiên cứu của Mikes (2009). Theo đó, trong bất cứ doanh nghiệp nào, những loại KSNB

đa dạng mà đơn vị áp dụng sẽ hình thành sự pha trộn KSNB một cách ngẫu nhiên trên cơ sở những đặc điểm của doanh nghiệp và bối cảnh thực tế của đơn vị [66]. Do đó, theo tác giả những nhân tố ảnh hưởng tới hệ thống KSNB trong ngân hàng bao gồm: Môi trường pháp lý; Đặc thù của ngành; Chuẩn mực và khung thực hành nghề nghiệp; Văn hóa kinh doanh; Qui mô doanh nghiệp; Mục tiêu thiết kế ; Mục tiêu và chiến lược; Quan điểm quản trị; Rủi ro.

Hình 2.3. Nhân tố ảnh hưởng hệ thống KSNB


Nguồn Tác giả tổng hợp Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý theo nghĩa 1


Nguồn : Tác giả tổng hợp

Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý theo nghĩa rộng bao gồm luật, các qui định và những nguyên tắc quản trị công ty mang tính bắt buộc thực hiện hoặc điều tiết thực hành KSNB. Hiện nay, Khung Basel trở thành qui định then chốt ảnh hưởng tới thực hành KSNB. Những yêu cầu công bố KSNB thường là một phần của những nguyên tắc quản trị công ty và sẽ ảnh hưởng tới thiết kế KSNB c ng như thực hành kiểm soát. Tại Mỹ hay Châu Âu, những qui định với các công ty công chúng về thực hành giám sát quản lý rủi ro dường như tác động tới thiết kế KSNB. Một số tổ chức xếp hạng tín dụng, chẳng hạn, Standard & Poor’s c ng làm gia tăng trách nhiệm của doanh nghiệp với quản trị rủi ro bằng cách xem xét và đánh giá

hoạt động của doanh nghiệp - Theo nghiên cứu của COSO (2009c); Grant Thornton (2009a), từ đó tác động và thực hiện KSNB tại đơn vị ([41], [48]).

Đặc thù của ngành: Mỗi ngành nhất định sẽ có những đặc điểm riêng. Trong lĩnh vực ngân hàng – tài chính, hoạt động được điều tiết bởi luật và những hướng dẫn do những cơ quan có thẩm quyền giám sát. Theo Cain (2009), các NHTM được yêu cầu hoặc khuyến nghị thực hiện theo những thiết kế KSNB nhất định. Một số báo cáo còn đề xuất ngành tài chính có thể chịu rủi ro hơn liên quan tới hành vi gian lận. Do đó thiết kế kiểm soát cần liên quan tới rủi ro gian lận, bao gồm cả những chính sách về gian lận, phân chia trách nhiện, hướng dẫn ngắn xử lý tình huống và những thủ tục rà soát. Hơn nữa, theo nghiên cứu công bố của Beasley, Clune and Hermanson (2005) trong lĩnh vực ngân hàng hay tài chính thường thể hiện quá trình thực hành quản trị rủi ro một cách chắc chắn hơn so với những doanh nghiệp khác [36]. Vì vậy ảnh hưởng tới thiết kế những hoạt động kiểm soát quản lý rủi ro, chẳng hạn, rủi ro mong muốn, quá trình đánh giá rủi ro và báo cáo rủi ro cho nhà quản lý.

Chuẩn mực và khung thực hành nghề nghiệp: Những khung thực hành nghề nghiệp hoặc chuẩn mực, chẳng hạn COSO, là những tiêu chí quan trọng cho thiết kế KSNB. Thực tế, chúng được xem như là những “đường biên” để giám đốc và nhà quản trị cùng với những nhà tư vấn có thể thiết kế, quản lý và giám sát những KSNB. Mặt khác, KSNB có liên hệ chặt chẽ với những lĩnh vực của kế toán, kiểm toán, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, nên chuẩn mực thực hành cho những lĩnh vực ấy sẽ ảnh hưởng tới thiết kế và vận hành hệ thống KSNB. Theo nghiên cứu của Power (2007) Trong một số trường hợp, những chuyên gia kiểm toán có thể trở thành đối tác làm thay đổi vì các kiểm toán viên đang làm mọi thứ đều có thể kiểm toán được [72]

Văn hóa kinh doanh: Nghiên cứu của Chenhall (2003) cho thấy văn hóa được xác định như là những yếu tố tiềm ẩn chẳng hạn, hiểu biết, niềm tin, đạo đức, khách hàng và những khả năng của những thành viên mà một tổ chức hoặc một nhóm nhất định tồn tại [38]. Văn hóa sẽ khác nhau giữa những nhóm khác nhau và thiết kế KSNB phải phù hợp với văn hóa của đơn vị. Theo Pfister (2009) cho rằng, mặc dù, văn hóa thường được xem là một nhân tố độc lập ảnh hưởng tới việc áp dụng và kết quả của KSNB nhưng văn hóa c ng hình thành một phần của hoạt động kiểm soát

và hơn thế ảnh hưởng tới văn hóa tổ chức [70]. Văn hóa kinh doanh xét trên nghĩa hẹp còn thể hiện văn hóa của tổ chức.

Qui mô doanh nghiệp : Qui mô doanh nghiệp có liên hệ với những đặc điểm của hoạt động kiểm soát, từ đó có ảnh hưởng tới KSNB. Wood (2009) phát hiện những hệ thống kiểm soát phụ thuộc vào qui mô tổ chức. Hoạt động ở qui mô lớn có xu hướng chuẩn tắc hơn, được thể hiện thông qua hệ thống những hoạt động kiểm soát được văn bản hóa. Beasley, Clune và Hermanson (2005) c ng phát hiện thấy sự mở rộng việc thực hiện quản lý rủi ro có liên hệ với qui mô doanh nghiệp [36]. Với những doanh nghiệp lớn thường có nhu cầu lớn hơn nhưng c ng cần có những nguồn lực lớn hơn. Theo COSO (2006) những loại doanh nghiệp nhỏ hơn thường đối mặt với những thử thách khó khăn với việc thiết kế hệ thống KSNB [40].

Mục tiêu thiết kế: KSNB không chỉ có liên hệ với hệ thống kế toán và những nghiệp vụ tài chính mà có thể bao gồm cả hoạt động kiểm soát tài chính và phi tài chính c ng như là những mục tiêu khác ngoài mục tiêu chất lượng BCTC. Theo nghiên cứu của Trenerry (1999) thì trong mối liên hệ với thực hành kế toán, điểm khởi đầu của KSNB thường là hệ thống kế toán và những chu trình nghiệp vụ liên quan [79]. Do đó, những cơ sở dẫn liệu tài chính của quản lý xuất hiện để áp dụng khi thiết kế KSNB được xem xét. Mục tiêu thiết kế theo nghiên cứu của PCAOB (2007) hướng tới quan hệ với cơ sở dẫn liệu sẽ gồm: Tồn tại và xảy ra, Trọn vẹn; Đánh giá hoặc phân bổ; Quyền và nghĩa vụ; Trình bày và công bố [69]. Trong Hướng dẫn thực hành (Practice Advisory- PA) cho các kiểm toán viên nội bộ số 2120, các giám đốc nên qui định những loại rủi ro sẵn sàng chấp nhận. Dựa vào những rủi ro mong muốn được phê chuẩn, những hoạt động kiểm soát then chốt cần thiết kế để những mục tiêu có thể đạt được trong khi những rủi ro chính được quản lý và giảm thiểu. Bài học từ khủng hoảng tài chính 2008-2009 - Theo nghiên cứu của OECD (2009a, 2009b); Birkenshaw & Jenkins (2009) cho thấy tương tự như hầu hết những rủi ro mong muốn hoặc mức rủi ro mà một tổ chức sẵn sàng chấp nhận, có thể sẽ trở nên quan trọng hơn trong tương lai. Điều này có thể trở nên quan trọng để chỉ ra rằng rủi ro có thể bị giảm, được chấp nhận hoặc gia tăng từ những cách thức quản trị rủi ro khác nhau ([67], [68], [35]). Picket (2001) cho rằng ít rủi ro có thể c ng dẫn tới kết quả xấu như trường hợp nhiều rủi ro và hoạt động kiểm soát

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí