Các Phương Pháp Đo Lường Hiệu Quả Hđkd Của Nhtm


nhiên, khác với các doanh nghiệp trên thị trường, ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, thể hiện ở 3 khía cạnh:

Thứ nhất, hàng hóa trong kinh doanh của ngân hàng thương mại là tiền;

Thứ hai, ngân hàng thương mại không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh mà đóng vai trò là một trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán và cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế;

Thứ ba, nguồn vốn của ngân hàng thương mại chủ yếu là vốn đi vay.

Từ những đặc điểm trên có thể thấy hoạt động của ngân hàng thương mại chứa đựng nhiều rủi ro, đồng thời, nếu rủi ro xảy ra, mức độ rủi ro sẽ vô cùng lớn và tác động, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc đánh giá hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là yêu cầu cấp thiết nhằm phòng ngừa rủi ro, đảm bảo sự ổn định trong hoạt động của chính bản thân ngân hàng thương mại nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

1.2.3 Các phương pháp đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM

Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, hiệu quả HĐKD của NHTM hiện nay được nhìn nhận dưới hai góc độ: truyền thống và hiện đại.

1.2.3.1 Đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM theo cách tiếp cận truyền thống

Theo cách tiếp cận truyền thống, hiệu quả HĐKD của NHTM được đo lường bằng các nhóm chỉ tiêu sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

(i) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 7

ROE là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng tìm kiếm lợi nhuận ròng của ngân hàng trên 1 đồng vốn chủ sở hữu. Mức sinh lời trên vốn chủ sở hữu cao được đánh giá là tốt, thể hiện khả năng của ngân hàng tạo ra nhiều lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, hay nói cách khác, thể hiện sự tối ưu hóa trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế (Dịch vụ nhà đầu tư của Moody: MIS-


Moody’s Investors Service), ROE ≥ 12%-15% được coi là tốt. Tại Việt Nam: ROE được xem là tốt nếu nằm trong khoảng từ 14% - 17% (Trần Thọ Đạt và Lê Thanh Tâm, 2016). Theo tiêu chuẩn của CAMEL, ngân hàng đạt hiệu quả nhất khi chỉ tiêu ROE ≥ 22% (Rozzani và Rahman, 2013). Chỉ tiêu ROE càng cao phản ánh lợi nhuận ròng các cổ đông của ngân hàng nhận được càng cao.

Hiệu quả sử dụng vốn huy động

Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn huy động phản ánh khả năng tạo lợi nhuận ròng trên 1 đồng vốn huy động của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn càng thể hiện ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận từ nguồn vốn huy động được. Các ngân hàng đều cố gắng tối đa hóa chỉ tiêu này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.

(ii) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tài sản

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

ROA là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản của ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản cho biết bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế được tạo ra từ một đồng tài sản. Kết quả ROA càng lớn cho thấy khả năng tạo ra thu nhập từ tài sản của ngân hàng càng tốt, hiệu quả HĐKD càng tốt và ngược lại. Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu ROA ≥ 1% thể hiện ngân hàng đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng tổng tài sản (Trần Thọ Đạt và Lê Thanh Tâm, 2016). Theo CAMEL, ngân hàng đạt hiệu quả nhất khi tỷ lệ ROA ≥ 1,5% (Rozzani và Rahman, 2013).

* Phương pháp Dupont

Dupont là phương pháp phân tích hoạt động tài chính được phát minh bởi F.Donaldson Brown – nhà quản lý tài chính của công ty Dupont (Callahan và cộng sự, 2015). Phương pháp này thiết lập mối quan hệ giữa các chỉ số tài chính để có thể đánh giá hiệu quả HĐKD một cách sâu sắc và toàn diện. Ngày nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia để phân tích 2 chỉ tiêu ROE và ROA.


- Mô hình DuPont – Phân tích ROA

Theo mô hình Dupont, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản – ROA được phân tách như sau:



hay ROA = Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM) x Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản (AU)

Dựa trên phân tách công thức trên ta thấy được ROA của một ngân hàng sẽ phụ thuộc vào 2 yếu tố:

+ Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM): hệ số này gián tiếp phản ánh hiệu quả kiểm soát chi phí và hiệu quả chính sách định giá dịch vụ của ngân hàng. Nếu ngân hàng quản lý chi phí tốt, định giá dịch vụ hợp lý thì NPM sẽ cao. Ngược lại, ngân hàng nào có hiệu quả kiểm soát chi phí kém, chính sách định giá dịch vụ không hiệu quả thì sẽ có NPM thấp, dẫn đến ROA thấp.

+ Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản tài sản (AU) thể hiện bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế được tạo ra từ một đồng tài sản. Vòng quay tổng tài sản -AU cho thấy hiệu quả và tần suất khai thác tài sản của ngân hàng. Nếu ngân hàng cải thiện được hiệu suất khai thác tài sản (thông qua việc có chính sách quản lý danh mục tài sản hợp lý, đặc biệt là cấu trúc và thu nhập của tài sản) sẽ cải thiện được ROA.

- Mô hình DuPont – Phân tích ROE:

Theo mô hình Dupont, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE được phân tách như sau:


Hay ROE = ROA x EM = NPM x AU x EM

Dựa trên phân tách công thức trên ta thấy được ROE của một ngân hàng sẽ phụ thuộc vào 3 yếu tố:

+ Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM)

+ Tỷ lệ tổng thu từ hoạt động so với tổng tài sản (AU)


+ Hệ số nhân vốn EM thể hiện cơ cấu vốn của ngân hàng. Tỷ lệ EM cũng cho thấy sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận mà các nhà quản lý ngân hàng phải đối mặt thông qua tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính hay các chính sách tài trợ.

Sự thay đổi của ROE có thể do tác động của ít nhất một trong 3 yếu tố trên. Mặt khác, để tăng ROE, ngân hàng cần phải tăng hiệu quả hoạt động, hiệu quả khai thác tài sản và lựa chọn cơ cấu vốn thích hợp.

Hiệu quả sử dụng tài sản vào hoạt động phi tín dụng

Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng thu ngoài lãi (thu từ hoạt động phi tín dụng) của ngân hàng được tạo ra từ một đồng tài sản. Giá trị của chỉ tiêu này càng lớn càng thể hiện ngân hàng hoạt động hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra nguồn thu ngoài lãi của mình. Trong bối cảnh các NHTM đang đẩy mạnh tìm kiếm nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ, giá trị của chỉ tiêu này càng cao càng tốt.

(iii) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng lao động

Lợi nhuận trước thuế trên mỗi CBNV

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận của một nhân viên ngân hàng trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng làm việc của CBNV ngân hàng càng cao và ngược lại. Khả năng làm việc của nhân viên ngân hàng có được dựa vào nhiều yếu tố như chất lượng, trình độ của nhân viên, hiệu quả lao động, khả năng sáng tạo, khả năng đáp ứng sự thay đổi liên tục về mặt khoa học, công nghệ,…

Thu nhập bình quân nhân viên ngân hàng

Chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân viên ngân hàng phản ánh mức thu nhập bình quân của CBNV ngân hàng theo kỳ. Chỉ tiêu này thể hiện chính sách lương, thưởng của ngân hàng dành cho người lao động. Thông thường, thu nhập bình quân đầu


người sẽ tỷ lệ thuận với hiệu quả HĐKD của ngân hàng. Khi ngân hàng HĐKD có hiệu quả, thu nhập bình quân của CBNV ngân hàng sẽ cao và ngược lại.

(iv) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả kiểm soát chi phí

Hiệu quả chi phí hoạt động

Chỉ tiêu hiệu quả chi phí hoạt động phản ánh khả năng quản trị chi phí của ngân hàng. Chỉ tiêu này tính toán ngân hàng thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế từ một đồng chi phí hoạt động. Kết quả chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó thể hiện ngân hàng đã quản trị chi phí tốt để thu được lợi nhuận cao.

Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng tài sản

Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng tài sản cho biết để có được một đồng tài sản thì ngân hàng phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ công tác quản trị chi phí của ngân hàng càng tốt, tiết kiệm được chi phí trong kỳ là tiền đề để nâng cao hiệu quả HĐKD của ngân hàng.

(v) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả phòng chống rủi ro

Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng so với tổng dư nợ

Chỉ tiêu LPNL thể hiện khả năng chống đỡ của ngân hàng trong trường hợp xảy ra rủi ro mất vốn từ các khoản cho vay. Số dư dự phòng tín dụng được trích phụ thuộc vào quy định về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng của ngân hàng.

Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR)

Hệ số an toàn vốn tối thiểu là chỉ tiêu quan trọng đo lường mức độ an toàn vốn trong HĐKD của NHTM. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng vốn của ngân


hàng để bù đắp các tổn thất của tài sản có rủi ro và bảo vệ khách hàng. CAR ≥ 8% (theo quy định của Basel II); CAR ≥ 9% (theo qui định ở Việt Nam).

(vi) Nhóm chỉ tiêu đo lường hiệu quả quản trị, điều hành

Tốc độ tăng tổng tài sản có

Tài sản có của ngân hàng bao gồm: tài sản có sinh lời (80-95% tổng tài sản có) và tài sản có không sinh lời (5-20% tổng tài sản có). Tốc độ tăng tổng tài sản có phản ánh mức độ mở rộng HĐKD của ngân hàng. Trong khi đó, quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Tốc độ tăng trưởng dư nợ

Tốc độ tăng trưởng dư nợ là một trong những chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị, điều hành của ngân hàng. Thông qua việc so sánh dư nợ cho vay qua các năm, chỉ tiêu này đánh giá khả năng tìm kiếm khách hàng vay và tình hình thực hiện hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. Duy trì một tốc độ tăng trưởng dư nợ hợp lý giúp duy trì nguồn thu ổn định của ngân hàng, đồng thời thể hiện được ngân hàng đang kiểm soát được chất lượng tín dụng và đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Ngược lại, chỉ tiêu này càng thấp càng cho thấy ngân hàng đang khó khăn trong việc kết nối với khách hàng vay và tình hình hoạt động tín dụng chưa hiệu quả.

Tốc độ tăng thu nhập thuần

Tổng thu nhập thuần của ngân hàng bao gồm: thu nhập lãi thuần; tổng các khoản lãi (lỗ) thuần từ các hoạt động và thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần. Tốc độ tăng thu nhập thuần phản ánh mức độ gia tăng thu nhập của ngân hàng qua các năm, từ đó cho thấy ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không.


Phương pháp tiếp cận truyền thống nghiên cứu hiệu quả HĐKD của NHTM có ưu điểm là tính toán đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng. Hầu hết các chỉ số tính toán theo phương pháp này đều được lấy từ thông tin trên hệ thống báo cáo tài chính của ngân hàng. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm lớn là không phản ánh được mối quan hệ giữa các đầu vào và đầu ra của ngân hàng, từ đó khó có thể tìm hiểu tại sao ngân hàng không thể hoạt động ở mức tối ưu. Mặt khác, dù đánh giá về tất cả các mặt hoạt động của NHTM nhưng những chỉ số này vẫn khó có thể kết hợp để đưa ra bức tranh tổng thể về hiệu quả HĐKD của NHTM, từ đó gặp khó khăn trong việc so sánh các ngân hàng với nhau. Do đó, trong nhiều năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu thiên về sử dụng cách tiếp cận thứ hai: cách tiếp cận hiện đại dựa trên khái niệm về đường biên hiệu quả.

1.2.3.2 Đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM theo cách tiếp cận hiện đại

a. Các phương pháp đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM theo cách tiếp cận hiện đại

Theo cách tiếp cận hiện đại, hiệu quả HĐKD của ngân hàng được đo lường bằng việc phân tích mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của ngân hàng. Phương pháp này tính toán chỉ số hiệu quả tương đối bằng cách so sánh khoảng cách giữa các đơn vị ra quyết định (DMUs - ở đây là ngân hàng) với các đơn vị hoạt động tốt nhất nằm trên biên hiệu quả (biên hiệu quả bao gồm những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất trong mẫu nghiên cứu). Phương pháp này cho phép chúng ta xếp hạng được hiệu quả HĐKD của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.

Cách tiếp cận hiện đại có thể được thực hiện dựa trên 2 kỹ thuật ước lượng chính: (i) phương pháp tham số và (ii) phương pháp phi tham số. Sự khác nhau cơ bản giữa 2 cách tiếp cận này là cách tiếp cận tham số đòi hỏi phải chỉ định một hàm số cụ thể cho các đầu vào và đầu ra trong khi cách tiếp cận phi tham số thì không. Sơ đồ 1.1 giới thiệu các kỹ thuật đo lường hiệu quả biên được các nhà nghiên cứu trên thế giới sử dụng phổ biến khi phân tích hiệu quả HĐKD của ngân hàng.


Sơ đồ 1.1: Phương pháp tiếp cận hiện đại đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM

Phương pháp tiếp cận hiện đại đo lường hiệu quả HĐKD của NHTM

Tiếp cận phi tham số

Tiếp cận tham số

Phân tích bao dữ liệu (DEA)

Phân tích biên ngẫu

nhiên (SFA)

Phân tích bao xếp đặt tự do (FDH)

Phân tích tiếp cận phân phối tự do (DFA)


Phân tích biên dày (TFA)

Phân tích biên dày đệ quy (RTFA)

Nguồn: Tác giả tổng hợp (Aigner và Chu, 1968; Deprins et al., 1984, Berger et al., 1993; Charnes et al., 1994; Wagenvoort và Schure,, 1999; Fried et al., 2002)

Khi nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của NHTM, cách tiếp cận tham số được các tác giả sử dụng phổ biến nhất là SFA và cách tiếp cận phi tham số là DEA. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng kết hợp cả hai cách phương pháp DEA và SFA để đánh giá hiệu quả HĐKD của các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu.

b. Các cách tiếp cận lựa chọn biến đầu vào và biến đầu ra để xây dựng đường biên hiệu quả

Đường biên hiệu quả trong phương pháp đánh giá hiệu quả HĐKD của ngân hàng theo cách tiếp cận hiện đại được xây dựng dựa trên các biến đầu vào và biến đầu ra. Tuy nhiên, đặc trưng hoạt động của ngân hàng là ngành dịch vụ có nhiều đầu vào và nhiều đầu ra, đồng thời chưa có cơ sở khoa học vững chắc trong việc xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các đầu vào và đầu ra trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, hiện nay trên thế giới tồn tại một số cách tiếp cận khác nhau trong việc xác

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022