rộng HĐKD, hợp tác, học hỏi kinh nghiệm. Ngoài ra, đại diện cổ đông của các nhà đầu tư nước ngoài còn giúp cải thiện năng lực quản lý ngân hàng. Tác giả Phạm Mạnh Hùng (2018) đã chứng minh sự xuất hiện của sở hữu nước ngoài trong các NHTM Việt Nam làm tăng mức sinh lời và giảm tỷ lệ nợ xấu. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của Mathieson và Schinasi (2000); Majnoni và cộng sự (2003). Các nghiên cứu trên cũng chỉ ra được việc xuất hiện các yếu tố nước ngoài giúp các NHTM giảm thiểu chi phí hoạt động đáng kể, gia tăng năng lực cạnh tranh. Điều này có thể xuất phát từ lý do các ngân hàng có yếu tố nước ngoài thường có mô hình hoạt động tiên tiến, nguồn vốn huy động lớn, các yếu tố tích cực về mặt công nghệ,... Tác động của các yếu tố này giúp cho hoạt động của ngân hàng hiệu quả hơn so với những ngân hàng hoàn toàn không có sở hữu nước ngoài.
c. Thị phần
Mối quan hệ giữa thị phần và lợi nhuận vẫn thường được nhắc đến khi hoạch định chiến lược kinh doanh của các ngân hàng. Áp lực cạnh tranh ngày càng lớn đặt các nhà quản trị ngân hàng trước những lựa chọn để nâng cao hiệu quả HĐKD. Một trong những quyết định đưa ra là có nên gia tăng thị phần hay không? Liệu gia tăng thị phần có đồng nghĩa với việc gia tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động hay không? Thị phần ở đây có thể là thị phần tiền gửi hoặc thị phần cho vay. Nếu muốn gia tăng thị phần, các NHTM phải chấp nhận bỏ ra nhiều chi phí hơn và đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Trong nghiên cứu của mình, Buzzel (2004) đã giải thích những lý do khiến ngân hàng có thị phần cao thường đạt được lợi nhuận cao hơn là do: quy mô lớn, kinh nghiệm và sức mạnh thị trường cao. Theo đó, tác giả cho rằng những ngân hàng lớn sẽ tạo ra được mối quan hệ nhân quả giữa phần chia thị trường và lợi nhuận. Nhờ sức mạnh của thị phần, ngân hàng sẽ cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng hơn với chi phí thấp hơn, từ đó đạt được lợi nhuận cao hơn. Cùng quan điểm trên, Evgeni Genchev (2012) cũng cho rằng ngân hàng có thể cải thiện lợi nhuận của mình thông qua việc gia tăng thị phần. Tác giả kh ng định việc gia tăng thị phần có mối quan hệ tích cực với các hoạt động sáp nhập và mua lại giữa các ngân hàng. Sau khi tiến hành M&A, thị phần của ngân hàng tăng, do đó
lợi nhuận ngân hàng cũng có xu hướng tăng. Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng trưởng 1% về thị phần sẽ dẫn đến sự thay đổi 0,68% trong ROE.
Đề cập đến ảnh hưởng của thị phần đến hiệu quả HĐKD của ngân hàng, tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) sử dụng biến MARKSHARE được tính bằng tổng tài sản của từng ngân hàng tổng tài sản của tất cả các ngân hàng. Kết quả cho thấy phần chia thị trường có dấu dương (+), nghĩa là có tác động tích cực đến hiệu quả HĐKD của ngân hàng, nghĩa là phần chia thị trường lớn sẽ giúp các ngân hàng giảm chi phí hoạt động, tạo ra lợi nhuận lớn hơn. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy nhân tố thị phần có tác động tích cực đến hiệu quả HĐKD của ngân hàng là nghiên cứu của Trần Huy Hoàng và Nguyễn Hữu Huân (2016).
d. Năng lực quản trị rủi ro
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, HĐKD của ngân hàng luôn gắn liền với những rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá. Vì vậy, năng lực quản trị rủi ro là một trong những nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả HĐKD của các NHTM. Các NHTM quản trị rủi ro tốt thường sẽ có một kết quả HĐKD khả quan và ngược lại. Trong tất cả những loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải, rủi ro tín dụng được đặc biệt quan tâm trong mối quan hệ với hiệu quả HĐKD của ngân hàng. Tất cả các giả thuyết về chất lượng quản trị, thuyết đạo đức, thuyết tiết kiệm, thuyết kém may mắn trong nghiên cứu của Berger and DeYoung (1997) đều kh ng định mối quan hệ nhân quả giữa rủi ro tín dụng và hiệu quả HĐKD của ngân hàng. Trong nghiên cứu của mình vào năm 2006, Chang và Chiu kết luận rằng rủi ro tín dụng thực sự có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng và chiều hướng tác động phụ thuộc rất nhiều vào mức độ rủi ro của ngân hàng đó. Đồng quan điểm với hai tác giả trên, Pasiouras (2007) cũng cho rằng việc tính toán hiệu quả HĐKD của ngân hàng chỉ được thực hiện chính xác khi tính đến các yếu tố về rủi ro tín dụng. Một số nhân tố về rủi ro tín dụng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả HĐKD của ngân hàng bao gồm:
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Ngân Hàng Thương Mại Trong Nền Kinh Tế
- Các Phương Pháp Đo Lường Hiệu Quả Hđkd Của Nhtm
- Các Cách Tiếp Cận Lựa Chọn Biến Đầu Vào Và Biến Đầu Ra Để Xây Dựng Đường Biên Hiệu Quả
- Các Biến Độc Lập Trong Mô Hình Tobit Và Kỳ Vọng Tương Quan Với Biến Phụ Thuộc
- Hiệu Quả Sử Dụng Vốn Huy Động Của Các Nhtmcp Việt Nam Giai Đoạn 2013-2018
- Thu Nhập Bình Quân Nhân Viên Ngân Hàng Của 29 Nhtmcp Việt Nam 2013-2018
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu được tính bằng nợ xấu tổng dư nợ tín dụng, phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nợ xấu càng cao càng thể hiện ngân hàng đang quản lý rủi ro không tốt và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kết quả HĐKD của ngân hàng. Hầu hết các nghiên cứu trong và ngoài nước đều đồng thuận về mối quan hệ nghịch chiều giữa tỷ lệ nợ xấu và hiệu quả HĐKD của ngân hàng (Berger và DeYoung (1997); Nguyễn Việt Hùng (2008); Nguyễn Thu Nga (2017)). Điều này cho thấy nếu các NHTM không sử dụng tốt nguồn vốn huy động, chạy theo doanh số cho vay khiến tỷ lệ nợ xấu tăng cao thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả HĐKD. Theo Berger và DeYoung (1997), nếu các khoản nợ xấu tăng không kiểm soát, ngân hàng sẽ phải tăng thêm rất nhiều khoản chi phí bao gồm: chi phí giám sát khách hàng và các khoản thế chấp, chi phí dàn xếp và giải quyết các khoản vay quá hạn, chi phí xử lý tài sản đảm bảo,... Các chi phí này chưa bao gồm một số chi phí phát sinh khác như: chi phí bảo vệ thương hiệu, chi phí đảm bảo chất lượng cho các khoản vay khác,... Việc tăng chi phí để xử lý và duy trì HĐKD chính là nguyên nhân chính tạo nên mối quan hệ nghịch chiều giữa nợ xấu và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Dư nợ cho vay/ Tổng tài sản
Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản thể hiện công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này quá cao, ngân hàng sẽ có nguy cơ về rủi ro thanh khoản. Tỷ lệ này cũng thể hiện mức độ sử dụng tài sản của ngân hàng, nếu ngân hàng quá tập trung tài sản vào hoạt động tín dụng sẽ có thể bỏ qua các nguồn thu khác đến từ các hoạt động cung cấp dịch vụ. Mặt khác, khi lượng vốn dành cho hoạt động tín dụng tăng thì rủi ro tín dụng cũng sẽ gia tăng vì không phải ngân hàng nào cũng sử dụng vốn tín dụng một cách hiệu quả. Điều này xuất phát từ sự khác biệt trong năng lực quản lý rủi ro của các ngân hàng bao gồm: khả năng phân tích, thẩm định dự án của nhân viên tín dụng chưa cao; năng lực quản lý, giám sát của bộ phận quản lý rủi ro còn kém. Trong khi đó, dưới sức ép cạnh tranh của thị trường, các ngân hàng đã chạy đua tìm kiếm khách hàng nên dễ dãi trong việc thẩm định các dự
án vay vốn (Nguyễn Việt Hùng, 2008). Kết quả là hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng giảm, nợ xấu tăng gây ra rủi ro rất lớn cho toàn hệ thống ngân hàng.
e. Năng lực kiểm soát chi phí
Trong quá trình HĐKD, năng lực kiểm soát chi phí là yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công, thất bại của một ngân hàng. Để tối thiểu hóa chi phí trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng cần đưa ra được những định hướng, chiến lược kinh doanh, kế hoạch phát triển hiệu quả. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào phẩm chất, tài năng của nhà quản trị, đặc biệt là những nhà quản trị cấp cao trong ngân hàng. Năng lực kiểm soát chi phí sẽ quyết định hiệu quả các chiến lược phát triển dài hạn của ngân hàng như: chính sách đầu tư, chính sách huy động vốn, chính sách khách hàng, cơ sở vật chất, công nghệ,… Khả năng kiểm soát tốt chi phí không những giúp nâng cao hiệu quả HĐKD mà còn giúp ngân hàng có thể ứng phó tốt trước những diễn biến của thị trường. Tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) cho rằng: “Năng lực quản trị, điều hành còn có thể được phản ánh bằng khả năng giảm thiểu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất sử dụng các đầu vào để có thể tạo ra một tập hợp đầu ra cực đại”.
Một trong những chỉ số biểu hiện mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong HĐKD của ngân hàng là tỷ lệ chi phí thu nhập. Tỷ lệ này cho biết chi phí ngân hàng bỏ ra để tạo nên 1 đồng thu nhập. Trong các nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Việt Hùng (2008) và Đặng Thị Minh Nguyệt (2017) đều kết luận rằng có tương quan nghịch chiều giữa tỷ lệ chi phí thu nhập và hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng. Tỷ lệ chi phí thu nhập càng nhỏ càng thấy được sự vận hành hiệu quả của ngân hàng. Muốn thực hiện được điều này, ngân hàng phải nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí, giảm tối đa chi phí để tăng hiệu quả. Tuy nhiên, việc giảm chi phí thực chất là một bài toán khó. Giảm chi phí trong khi vẫn phải mở rộng các HĐKD, đầu tư phát triển dịch vụ,... là thách thức rất lớn đối với các ngân hàng.
f. Chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quan trọng, quyết định sự tồn tại của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua mức độ đáp ứng của người lao động với những yêu cầu về công việc mà doanh nghiệp đề ra nhằm đạt được mục tiêu cụ thể. Với xu thế hội nhập hiện nay, các ngân hàng cần nghiên cứu cung cấp nhiều sản phẩm, dịch vụ mới, có tính cạnh tranh cao để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực của ngân hàng cần được nâng cao cả về lượng và về chất. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện qua trình độ học vấn, khả năng quản lý, kỹ năng nghiệp vụ cũng như các kỹ năng mềm khác như: kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm,… bao gồm cả những yếu tố trừu tượng hơn như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. So với những yếu tố khác có thể đo lường được, đạo đức nghề nghiệp là một yếu tố định tính, mang tính cảm quan, tuy nhiên lại ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả HĐKD cũng như là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, việc xây dựng một đội ngũ nhân viên vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vừa có kỹ năng mềm và đạo đức nghề nghiệp tốt là tôn chỉ hoạt động của các NHTM. Chất lượng nguồn nhân lực tác động cùng chiều với hiệu quả HĐKD của ngân hàng. Một nguồn nhân lực tốt sẽ góp phần tạo nên các sản phẩm, dịch vụ tốt, giúp duy trì nguồn khách hàng trung thành, thu hút khách hàng mới và tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
g. Trình độ kỹ thuật công nghệ
Trình độ kỹ thuật công nghệ phản ánh khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ thông tin của ngân hàng. Trong thời đại hội nhập, các NHTM cần nâng cao vị thế của mình thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ; đầu tư vào các hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin điện tử, các thiết bị giao dịch tự động. Đồng thời, các NHTM cũng nên tăng cường đầu tư vào hệ thống báo cáo rủi ro, hệ thống thông tin quản lý,… để tăng khả năng dự báo rủi ro, hạn chế tổn thất nhằm nâng cao hiệu quả HĐKD. Trong nghiên cứu của mình về hệ thống ngân hàng Thái Lan, Sufian và Habibullah (2010) đã chỉ ra rằng các NHTM đạt hiệu quả HĐKD cao hơn nhờ sử
dụng công nghệ thông tin để giảm thiểu chi phí hoạt động. Vì vậy, các ngân hàng cần ưu tiên vốn đầu tư vào kỹ thuật công nghệ, tăng cường sử dụng công nghệ mới, gia tăng tính liên kết về công nghệ giữa các ngân hàng, đồng thời, đề cao tính độc đáo, đặc thù về công nghệ của mỗi ngân hàng.
1.2.4.2 Các nhân tố khách quan
Các yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài tác động đến hiệu quả HĐKD của NHTM có thể được chia thành các nhóm theo kỹ thuật phân tích PESTEL (Political – Chính trị, Economic – Kinh tế, Social – Xã hội, Technological – Kỹ thuật công nghệ, Legal – Luật pháp và Environmental – Môi trường).
a. Yếu tố chính trị
Sự ổn định về mặt chính trị chính là tiền đề cho sự phát triển của tất cả các ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế, không chỉ riêng lĩnh vực ngân hàng. Yếu tố chính trị được cấu thành từ nhiều yếu tố như môi trường chính trị; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; hoạt động của hệ thống chính trị; nền dân chủ xã hội; bầu không khí chính trị - xã hội. Yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến hiệu quả việc thực thi pháp luật của các chủ thể pháp luật, trong đó có NHTM. Một môi trường chính trị - xã hội ổn định cho phép các NHTM có thể đánh giá được mức độ rủi ro của môi trường kinh doanh và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, sự thay đổi về chính trị tại một thời điểm có thể tác động có lợi cho một nhóm các NHTM nhưng lại gây bất lợi cho những NHTM khác. Yếu tố chính trị cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh, nhiều NHTM có nhu cầu gọi vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài để gia tăng nội lực tài chính nên việc giữ vững một môi trường chính trị ổn định, an toàn là vô cùng cần thiết.
b. Yếu tố pháp luật
Hệ thống pháp luật càng hoàn thiện càng giúp cho hệ thống NHTM hoạt động kinh doanh lành mạnh và thực hiện được các chiến lược phát triển lâu dài. Mức độ hoàn thiện, sự ổn định về luật pháp có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ doanh nghiệp trong nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng – huyết mạch của nền kinh tế. Việc
các NHTM có khả năng hoạch định, tổ chức các chiến lược kinh doanh lâu dài hay không phụ thuộc rất lớn vào sự thay đổi của các chính sách pháp luật. Các chính sách này có thể ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển, lưu thông, thuế,... đặc biệt đối với những NHTM cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Tất cả những chính sách về thương mại quốc tế, quy định về thuế, hạn ngạch, luật bảo hộ,... đều ảnh hưởng rất lớn đến các NHTM thông qua tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, các chủ thể trong nền kinh tế và tác động trực tiếp đến mỗi NHTM thông qua hệ thống công cụ vĩ mô của Chính phủ và NHNN.
c. Yếu tố kinh tế vĩ mô
Hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự ảnh hưởng của nhóm các yếu tố kinh tế vĩ mô bao gồm: chu kỳ kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP),... Cụ thể:
Chu kỳ kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, các doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh kéo theo nhu cầu về vốn và giao dịch thanh toán tăng, thúc đẩy hoạt động tín dụng và thanh toán của NHTM phát triển. Đồng thời, kinh tế phát triển tạo công ăn việc làm cho người lao động, thu nhập tăng, hoạt động huy động vốn của NHTM tăng trưởng. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào chu kỳ suy thoái, các chủ thể kinh doanh gặp khó khăn, người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu, dẫn đến nhu cầu về hoạt động tín dụng, thanh toán, đầu tư sẽ giảm mạnh. Tác động của khủng hoảng kinh tế còn khiến cho ngân hàng phải đối mặt với những rủi ro mất vốn, nợ xấu,...
Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát ở mức vừa phải sẽ kích thích tăng trưởng và đầu tư, tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên khi lạm phát tăng quá cao sẽ làm cho sức mua đồng tiền giảm xuống, tác động xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ khác của NHTM. Để huy động được vốn trong điều kiện lạm phát cao, các NHTM phải nâng lãi suất huy động, sự cạnh tranh giữa các NHTM với nhau đẩy lãi suất huy động ngày càng cao, tiệm cận với lãi suất tín dụng, ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh, gây bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Đồng thời, trong điều kiện lạm phát, NHTW phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong khi đó, nhu cầu tín dụng của nền kinh tế vẫn cao, để giải quyết tình trạng này, các NHTM sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá là không thể tránh khỏi.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển của một vùng, một khu vực lãnh thổ. Chỉ tiêu GDP cho thấy mức độ gia tăng các giá trị sản phẩm mà vùng, khu vực lãnh thổ này làm được so với thời gian giai đoạn trước. Một số nghiên cứu trên thế giới đã đưa yếu tố này vào mô hình phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả HĐKD của NHTM như: nghiên cứu của Gul và cộng sự (2011), nghiên cứu của Bandaranayake và Jayasinghe (2013). Kết quả cho thấy tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ảnh hưởng mạnh tới hoạt động của lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Cụ thể, tỷ lệ GDP cao – thể hiện mức tăng trưởng kinh tế tốt – sẽ có tác động tích cực tới các NHTM. Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP giảm sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả HĐKD của các NHTM. Tuy nhiên, hiệu ứng tác động của yếu tố này có độ trễ nhất định. Nghĩa là tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ thể hiện rõ vào năm tiếp theo. Tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Quang Minh (2015) cũng đã đo lường sự tác động của tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ ROA và ROE, kết quả cho thấy mối tương quan thuận chiều giữa 2 biến này. Nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế năm trước sẽ ảnh hưởng thuận chiều đến hiệu quả HĐKD của các NHTM năm sau và ngược lại. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Thị Thu Thương (2017) về hiệu quả HĐKD của các NHTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên lại không tìm thấy mối tương quan giữa GDP trên đầu người trong thời kỳ nghiên cứu (GDPCAP) và độ đo hiệu quả của các ngân hàng này.
d. Yếu tố văn hóa - xã hội
Nhóm các yếu tố về xã hội, văn hóa ảnh hưởng đến hiệu quả HĐKD của NHTM bao gồm: (1) Những quan niệm về thẩm mỹ, đạo đức, lối sống; (2) Những