Hoàn Thiện Các Giải Pháp Tài Chính Đối Với Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch


Thứ hai, nâng cao hiệu quả chi NSNN cho đầu tư xây dựng CSHT du lịch.

Một là, tạo nguồn thu cho NSNN để tạo điều kiện tăng qui mô chi NSNN cho CSHT du lịch. Theo đó, tỉnh Thanh Hoá nên duy trì tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào ngân sách tỉnh khoảng từ 16% - 17% GDP nhằm tăng nguồn thu ngân sách trên địa bàn phù hợp với tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế. Trong 3 năm gần đây thu NSNN trên địa bàn Thanh Hoá mới chỉ đạt khoảng 12,6% - 14,31% (năm 2018: 14,097%, năm 2019: 14,41%, năm 2020: 12,601% do dịch bệnh kéo dài) thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ 24,7% của cả nước giai đoạn này. Để thực hiện tốt tỷ lệ động viên nêu trên, tỉnh Thanh Hoá cần phải có hệ thống pháp luật về thu NSNN đầy đủ, đồng bộ, bao quát tất cả các đối tượng phải nộp phát sinh trong thực tế và có chế tài đủ mạnh để đảm bảo cho việc chấp hành nghiêm minh pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Bên cạnh đó ngành thuế phải thực hiện tốt nhiệm vụ thu ngân sách, tăng cường tuyên truyền chống thất thu và nợ đọng thuế, đồng thời động viên, nuôi dưỡng, khai thác tốt các nguồn thu. Để tận thu cần nâng cao hiệu quả quản lý thuế bằng cách tăng cường trách nhiệm của cơ quan Thuế trong việc kiểm tra, giám sát việc xác định doanh thu, mức miễn, giảm thuế TNDN. Tiếp tục phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền về dịch vụ nộp thuế điện tử, trong đó nêu rõ việc cải cách hành chính của cơ quan thuế và lợi ích thiết thực đối với doanh nghiệp khi thực hiện nộp thuế điện tử. Duy trì hoạt động đường dây nóng để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư CSHT phản ánh các vướng mắc và cử cán bộ thường trực để trả lời, giải đáp kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện dịch vụ nộp thuế điện tử. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho người nộp thuế các chính sách thuế cần phải được thực hiện theo hướng giản đơn hơn nữa trong các khâu kê khai, nộp thuế, hoàn thuế đối với doanh nghiệp đầu tư CSHT du lịch.

Hai là, nâng cao hiệu quả chi NSNN cho đầu tư xây dựng CSHT du lịch bằng cách lựa chọn, ưu tiên phân bổ chi NSNN cho các chương trình, dự án trọng điểm có tiềm năng PTDL để tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, không tập trung. Những dự án CSHT du lịch được đầu tư phải tạo động lực thúc đẩy PTDL bền vững nhằm phát triển KTXH tỉnh Thanh Hóa về mọi mặt cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Một số dự án CSHT quan trọng cần được ưu tiên nguồn vốn từ NSNN như: đường cao tốc Bắc Nam đoạn qua Thanh Hóa; đường bộ ven biển đoạn qua Thanh Hoá; đường nối từ Trung tâm thành phố Thanh Hóa đi Cảng hàng không Thọ Xuân;


đường giao thông từ thành phố Thanh Hóa kết nối với các huyện phía Tây của tỉnh; đường nối Quốc lộ 47B với Quốc lộ 45 đi Ninh Bình; đầu tư các tuyến đường kết nối các tuyến giao thông trục chính của tỉnh với nút giao của đường cao tốc nhằm phát huy hiệu quả cao tốc Bắc - Nam đoạn qua Thanh Hóa. Đầu tư nâng cấp và mở rộng, hoàn chỉnh hệ thống giao thông kết nối giữa Thanh Hóa với các tỉnh khu vực Tây Bắc, các tỉnh nước bạn Lào như: Quốc lộ 15, Quốc lộ 217, Quốc lộ 47; nghiên cứu đề xuất đầu tư xây dựng tuyến đường Xiêng Khoảng - Hủa Phăn - Thanh Hóa... Chi NSNN nhằm nâng cấp Cảng hàng không Thọ Xuân theo hướng hiện đại để khai thác hàng không dân dụng quốc tế theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt. Chi NSNN nhằm nâng cấp hệ thống thông tin tín hiệu, nhà ga đường sắt trên địa bàn tỉnh và xây dựng một số cầu đường bộ vượt đường sắt; nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt từ khu vực Lam Sơn - Sao Vàng - Cảng hàng không Thọ Xuân về Khu kinh tế Nghi Sơn.

Đây là một giải pháp quan trọng bởi trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, nếu đầu tư dàn trải dẫn đến nhiều dự án CSHT du lịch được triển khai trong một thời điểm sẽ kéo dài thời gian hoàn thành, chậm tiến độ sử dụng không đáp ứng được yêu cầu thực tế về PTDL cũng như phát triển KTXH. Chi NSNN chỉ nên tập trung đầu tư vào các dự án CSHT quan trọng tạo động lực thúc đẩy PTDL bền vững hoặc các dự án mà các chủ đầu tư không muốn đầu tư vì khả năng thu hồi vốn thấp và trong thời gian dài để phát huy hiệu quả phát triển KTXH mạnh mẽ.

Ba là, cân đối lại nguồn chi NSNN cho các lĩnh vực trong nội bộ ngành du lịch

để tạo ra giá trị gia tăng và sự phát triển đồng đều các SPDL.

Hiện nay vốn ngân sách dành cho lĩnh vực giao thông chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi NSNN cho CSHT du lịch, tuy nhiên chỉ tập trung đến các SPDL biển, đảo là chủ yếu, các SPDL khác chưa được xây dựng nhiều, dẫn đến mất cân đối trong phát triển SPDL. Trong thời gian tới, tỉnh cần thay đổi cơ cấu chi NSNN cho phù hợp với lợi thế và định hướng phát triển đa dạng các SPDL của địa phương và hướng tới thị trường khách du lịch, hơn nữa chi NSNN cần tập trung ưu tiên cho CSHT hướng đến các SPDL mới, có lợi thế so với các địa phương khác; chuyển từ đầu tư tập trung cho SPDL biển, đảo sang các SPDL văn hoá, lịch sử, sinh thái, cộng đồng, văn hoá, làng nghề…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 274 trang tài liệu này.


Thứ ba, tiếp tục thực hiện hỗ trợ tối đa về mặt thủ tục các ưu đãi thuế TNDN, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào CSHT du lịch.

Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa - 20

Để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển CSHT du lịch như: đường giao thông, nhà máy xử lý rác thải, nước thải, điện, nước, hệ thống khách sạn, nhà hàng, nhà vệ sinh công cộng… gắn với các khu du lịch trọng điểm của địa phương như trong Khu kinh tế, Khu kinh tế ven biển, Khu du lịch Sầm Sơn, Di tích lịch sử Lam Kinh, Di tích lịch sử Thành Nhà Hồ... cần tạo mọi điều kiện hỗ trợ tối đa về mặt thủ tục về thuế TNDN, thuế GTGT, thuế xuất khẩu, nhập khẩu cho nhà đầu tư được thuê đất, giao đất để tiến hành xây dựng CSHT kinh doanh. Tuy nhiên do các thủ tục hành chính của cơ quan thuế cũng như một số yếu tố khách quan khác đã ảnh hưởng đến tiến độ và thời gian ban giao đất cho nhà đầu tư. Do vậy, song song với việc áp dụng đúng, chuẩn xác các quy định trong chính sách thuế, cần áp dụng đồng bộ qui trình cải cách thủ tục hành chính nói chung và qui trình bàn giao, cấp quyền sử dụng đất nói riêng cho các doanh nghiệp du lịch. Cơ quan thuế cần hướng tới mô hình coi doanh nghiệp, người nộp thuế như những khách hàng tiềm năng để có phong cách làm việc chuyên nghiệp, văn minh, hiệu quả. Đây là hình thức vừa nhằm quản lý tốt nguồn thu từ thuế, vừa góp phần tạo thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, vừa khai thác và bồi dưỡng nguồn thu trong tương lai. Mặt khác, cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chậm nộp tiền phát sinh của các khoản tiền nợ thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch giảm bớt khó khăn về tài chính, tập trung nguồn lực khắc phục những ảnh hưởng của dịch bệnh covid 19 diễn ra trong thời gian qua. Cần tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp khi tiếp cận các gói hỗ trợ về thuế bao gồm giảm, hoãn tiền thuê đất, thuế TNDN, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu để doanh nghiệp có thể tiếp cận nhanh nhất được các gói hỗ trợ này.

Thứ tư, trong điều kiện nguồn vốn có hạn, các chi nhánh Ngân hàng Phát triển trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cần xây dựng và quản lý danh mục đầu tư hợp lý theo hướng tập trung vào các dự án CSHT có vai trò quan trọng đối với PTDL của địa phương. TDNN phải đi đầu trong việc đầu tư phát triển CSHT du lịch dưới nhiều hình thức khác nhau, có thu hồi vốn để giảm sự lệ thuộc vào vốn NSNN.


Đối với các dự án đầu tư về du lịch tổ chức thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; Dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc Chương trình 135 và các xã biên giới thuộc Chương trình 120, các xã vùng bãi ngang (không bao gồm dự án nhiệt điện, sản xuất xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt). Cần tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ hơn nữa để các CSKDDL nơi đây có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ưu đãi Nhà nước. Với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường là đòn bẩy để các cơ sở kinh doanh du lịch có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ trong đầu tư phát triển các SPDL sinh thái, cộng đồng, làng nghề, thúc đẩy PTDL bền vững.

Mặt khác, để bảo vệ nguồn vốn cho vay đối với CSHT trên địa bàn tỉnh, NHPT chi nhánh Thanh Hoá cần nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm soát dòng tiền vay, phải đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, giám sát cho vay. Tăng cường hoạt động TDNN đi đôi với nâng cao chất lượng thẩm định các dự án CSHT du lịch, trên cơ sở đó đẩy mạnh công tác giải ngân gắn với thu hồi nợ vay và thực hiện tốt công tác xử lý nợ; từ chối cho vay những dự án không đúng đối tượng, không đủ điều kiện vay vốn. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn tín dụng (ngừng giải ngân đối với các dự án CSHT có nợ quá hạn và lãi treo, giải ngân theo tỷ lệ vốn tham gia của Nhà nước…). Trong quá trình thẩm định các dự án vay vốn, cần quan tâm đến các tiêu chí đánh giá tác động về môi trường của các dự án lớn, coi đó là một trong những tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng, chất lượng đầu tư, cũng như mục tiêu thúc đẩy PTDL bền vững.

Thứ năm, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí NSNN cho khâu giải phóng mặt bằng đối với dự án CSHT du lịch lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi thu hút tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư hệ thống CSHT du lịch. Cần nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách chi NSNN cho bồi thường giải phóng mặt bằng nhằm đền bù thoả đáng, hỗ trợ tái định cư, trong đó tập trung ở các khu du lịch trọng điểm hoặc dự án du lịch có quy mô lớn như: Khu du lịch Sầm Sơn, Khu du lịch Hải Tiến (Hoằng Hoá), Khu kinh tế Nghi Sơn,… nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư có mặt bằng sạch để sớm triển khai dự án CSHT du lịch.

Thứ sáu, coi trọng hoàn thiện bộ máy thanh tra, kiểm tra theo hướng khách quan, minh bạch, chặt chẽ, nghiêm túc. Công tác thanh tra, kiểm tra giải pháp tài


chính gắn liền với việc khen thưởng việc tốt và xử lý nghiêm các sai phạm nhằm nâng cao hiệu quả của giải pháp tài chính, thúc đẩy PTDL bền vững. Tổ chức quản lý và thực hiện quyết liệt các đề án, dự án trọng điểm để tạo đột phá trong PTDL.

3.3.2. Hoàn thiện các giải pháp tài chính đối với đào tạo nguồn nhân lực du lịch

Chất lượng NNL đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phục vụ, chất lượng SPDL và PTDL bền vững của địa phương hiện nay. Trong thời gian qua, các giải pháp tài chính cho đào tạo NNL du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có những thay đổi tích cực, làm cho số lao động du lịch qua đào tạo có xu hướng tăng lên 79,8%. Tuy nhiên, các lớp đào tạo này chủ yếu tập trung về các nghiệp vụ cơ bản về du lịch mà chưa có nhiều các lớp đào tạo NNL du lịch chất lượng cao, nâng cao về ngoại ngữ, tin học; đạt tiêu chuẩn nghề du lịch… Vì vậy, theo định hướng phát triển NNL du lịch trong thời gian tới số lao động trực tiếp trong ngành du lịch tăng lên

62.000 lao động, trong đó số lao động qua đào tạo đạt 83,6% trở lên, có trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh, Nhật, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc…) từ 20% trở lên thì chính quyền tỉnh Thanh Hóa cần thực hiện đồng bộ các giải pháp tài chính nâng cao chất lượng NNL du lịch theo các hướng sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ chế, chính sách chi NSNN hỗ trợ đào tạo NNL du lịch phù hợp với mục tiêu phát triển NNL của tỉnh Thanh Hoá, gắn với phát triển đa dạng các SPDL, đáp ứng được các yêu cầu về kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng ngoại ngữ và tin học trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0.

Trong thời gian qua, các chính sách ưu đãi NNL du lịch ban hành chưa gắn với phát triển đa dạng các SPDL. Các chính sách đào tạo NNL chủ yếu thiên về SPDL biển đảo và SPDL sinh thái cộng đồng mà thiếu các chính sách hỗ trợ NNL gắn với các SPDL khác. Vì vậy, các chính sách ưu đãi cần tính đến việc phát triển NNL đáp ứng yêu cầu đa dạng các SPDL, đặc biệt là SPDL văn hoá, lịch sử và làng nghề. Việc lựa chọn chính sách hỗ trợ cần ưu tiên đến NNL gắn với SPDL tạo nhiều công ăn việc làm của người dân địa phương đang còn khó khăn. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ NNL phải tạo ra được động lực để người dân tiếp thu kiến thức để vận dụng tốt vào công việc nhằm nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, từ đó cải thiện đời sống, thúc đẩy phát triển SPDL của địa phương. Nhà nước chỉ nên hỗ trợ kinh phí cho những lớp kiến thức cơ bản về nghiệp vụ du lịch như: tổ chức kinh doanh các SPDL, tâm lý


và kỹ năng giao tiếp trong phục vụ khách du lịch, đón tiếp và phục vụ khách du lịch, hướng dẫn tham quan cho khách du lịch… còn các lớp nâng cao kiến thức chuyên môn cần huy động sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp.

Trong thời gian qua chưa có chính sách hỗ trợ NNL cho các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam, do vậy số lao động đạt tiêu chuẩn này thấp. Trong thời gian tới cần có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp tổ chức các khoá học nâng cao chất lượng theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề VTOS và tạo điều kiện, khuyến khích học viên tham gia cấp chứng chỉ nghề du lịch Việt Nam (phấn đấu 85% học viên tham gia khoá học thi đạt chứng chỉ nghề du lịch Việt Nam). Đối với hình thức này, cần có cơ chế để khuyến khích học viên đạt kết quả cao bằng cách hỗ trợ kinh phí toàn bộ đối với những học viên thi đạt tiêu chuẩn kỹ năng nghề VTOS còn những học viên thi không đạt phải chịu toàn bộ kinh phí.

Bên cạnh đó, tỉnh đã có một số chính sách hỗ trợ về đào tạo NNL nâng cao kỹ năng ngoại ngữ nhưng chưa được thực hiện, dẫn đến số lượng NNL đáp ứng yêu cầu ngoại ngữ chưa cao. Các chính sách hỗ trợ NNL nâng cao kỹ năng ngoại ngữ cần được xây dựng theo hướng hỗ trợ kinh phí toàn bộ cho việc mở các lớp giao tiếp cơ bản và nâng cao về trình độ ngoại ngữ theo các nước có thị phần khách du lịch lớn ở tỉnh Thanh Hoá như Anh, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc… để đáp ứng yêu cầu giao tiếp với khách du lịch nước ngoài.

Trước thời đại công nghệ 4.0, việc tiếp cận và áp dụng những thành tựu của cách mạng công nghệ số với ngành du lịch là xu thế chung của du lịch toàn cầu mà Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Mỗi người lao động trong ngành ngoài việc tích cực học hỏi, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ - đặc biệt là kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, sẵn sàng tiếp cận và sử dụng công nghệ mới phục vụ công việc của bản thân. Vì vậy cần có chính sách hỗ trợ kinh phí từ NSNN cho việc nâng cao năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề du lịch trong tỉnh gắn với ứng dụng công nghệ thông tin. Hơn nữa, cần hỗ trợ kinh phí cho việc đổi mới chương trình, phương pháp và nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo du lịch trong tỉnh để đảm bảo NNL trong tương lai (sau khi người học tốt nghiệp) có thể đáp ứng ngay các vị trí việc làm với yêu cầu về trình độ, kỹ năng sử dụng công nghệ trong công việc. Ngoài ra, cần có cơ chế hỗ trợ kinh phí thường


xuyên cho việc mở các lớp thực hành tin học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng về tin học cho người lao động để bắt kịp với cách mạng công nghệ số trong ngành Du lịch.

Thứ hai, xây dựng cơ chế đãi ngộ tốt và cơ chế thu hút hiền tài cho ngành du lịch của tỉnh. NNL du lịch qua đào tạo trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá thời gian qua có xu hướng tăng, nhưng NNL có trình độ cao, đặc biệt là chuyên gia trong lĩnh vực du lịch không có nhiều, chủ yếu là mời tư vấn từ nơi khác về. Như vậy, để có NNL chất lượng cao, chuyên gia trong lĩnh vực du lịch của tỉnh thì cần có cơ chế, chính sách chi NSNN để thu hút và giữ chân NNL này. Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh Thanh Hoá cần thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực du lịch về công tác và gắn bó lâu dài với tỉnh Thanh Hoá. Đối với NNL chất lượng cao này cần phải có chế độ về lương, thưởng thoả đáng để không những thu hút mà còn duy trì được đội ngũ nhân lực này cống hiến cho sự nghiệp PTDL bền vững của tỉnh Thanh Hoá. Bên cạnh đó, cần có cơ chế khuyến khích, khen thưởng kịp thời với người lao động trong ngành có ý tưởng đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu, áp dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả trong công việc.

Ngoài ra, cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho việc viết giáo trình, tài liệu du lịch thiên về các nội dung tài nguyên du lịch như: tài nguyên du lịch biển đảo, văn hoá, lịch sử, các loại hình văn hoá, nghệ thuật dân gian… của địa phương để cung cấp cho học viên cũng như khách du lịch các kiến thức cơ bản nhất về du lịch địa phương. Để được hỗ trợ các giáo trình, tài liệu này cần phải được thẩm định qua các bước và xin ý kiến của các chuyên gia trong ngành du lịch.

Thứ ba, cân đối nguồn vốn NSNN cho việc tiếp tục hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng NNL du lịch. Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 hiện nay, ngành du lịch là ngành có đội ngũ lao động bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Sự hao hụt về mặt nhân sự do số lượng lao động không nhỏ phải nghỉ việc hoặc chuyển nghề đã buộc các doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề nhân sự. Để hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch cũng như sự PTDL của địa phương cần có cơ chế, chính sách tiếp tục hỗ trợ NNL du lịch. Các chính sách hỗ trợ cần gắn với NNL của các doanh nghiệp có khả năng tồn tại và chống chọi được sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh như hiện nay. Cụ thể:


Cần tiếp tục chi NSNN hỗ trợ để tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cơ bản cho NNL du lịch. Tỉnh cần cân đối, bố trí từ nguồn ngân sách hỗ trợ thường xuyên để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ từ kinh doanh đến quản lý, lớp thuyết minh viên cho NNL tại các khu, điểm du lịch để người lao động có thể trau dồi, cập nhật kiến thức và nắm bắt xu thế PTDL.

Bố trí kinh phí từ NSNN cho đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho đội ngũ lao động trực tiếp hiện có nhằm cải thiện chất lượng SPDL. Tỉnh Thanh Hóa cần quan tâm hỗ trợ nguồn kinh phí từ NSNN cho công tác đào tạo, bồi dưỡng chất lượng nghiệp vụ cho đội ngũ lao động trực tiếp từ cộng đồng, nhân lực vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số để từng bước tăng cường năng lực tham gia của cộng động dân cư địa phương cho PTDL. Để giảm bớt kinh phí từ NSNN cần nhân rộng mô hình đào tạo tại chỗ và tự đào tạo ngắn hạn, không tập trung, truyền nghề, phục vụ nhu cầu nâng cao trình độ, tay nghề của NNL du lịch tại địa phương nhằm cải thiện chất lượng SPDL.

Tiếp tục chi NSNN cho việc nâng cao chất lượng đào tạo các cơ sở có chức năng đào tạo chuyên ngành du lịch. Trong giai đoạn 2014 - 2020, chi NSNN cho nâng cao chất lượng đào tạo các cơ sở có chức năng đào tạo chuyên ngành du lịch đạt 2,905 tỷ đồng, chiếm 24,83% trong tổng chi NSNN cho NNL du lịch, như vậy con số này vẫn rất thấp so với kế hoạch đề ra. Như vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở có chức năng đào tạo chuyên ngành du lịch gắn với thực tế, cần tăng chi NSNN để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học về du lịch để đào tạo NNL du lịch đáp ứng đủ yêu cầu về số lượng và chất lượng. Ngoài ra, cần dành một phần kinh phí từ NSNN để đổi mới chương trình dạy học phù hợp với thực tiễn gắn lý thuyết, thực hành và phù hợp với đặc thù của địa phương.

Chi NSNN cần cân đối, bố trí hỗ trợ cho công tác đào tạo NNL du lịch theo đề án, trong đó cần đẩy mạnh cho đào tạo NNL gắn với SPDL, để hướng NNL du lịch được đào tạo đáp ứng yêu cầu của các loại SPDL đang cần phát triển. Đây là điểm quan trọng để tạo NNL du lịch đáp ứng yêu cầu của các SPDL mũi nhọn của địa phương trong thời gian tới, nâng cao vị thế cạnh tranh với các SPDL của các địa phương khác.

Xem tất cả 274 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí