Định Hướng Và Mục Tiêu Phát Triển Du Lịch Bền Vững Tỉnh Thanh Hóa Đến Năm 2025, Tầm Nhìn Đến Năm 2030


trợ nhưng hiệu quả sử dụng vốn không cao. Cụ thể như SPDL sinh thái, cộng đồng, làng nghề được hỗ trợ kinh phí khá lớn nhưng dàn trải, không tập trung, dẫn đến các SPDL sinh thái cộng đồng làng nghề chưa thực sự phát huy tác dụng.

Chưa có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống SPDL chất lượng cao, đặc sắc, đa dạng, có GTGT cao, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách du lịch quốc tế và nội địa. Ngoài ra, chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí liên kết SPDL giữa các vùng, miền, địa phương hướng tới hình thành SPDL đặc trưng theo vùng. Chưa có chính sách chi NSNN hỗ trợ cho phát triển SPDL mới phục vụ khách tham quan cuối tuần, SPDL sinh thái nông nghiệp, nông thôn. Chính sách chi NSNN cho các loại hình dịch vụ phục vụ về đêm cũng chưa có như hoạt động vui chơi giải trí về đêm; trình diễn nghệ thuật đường phố; phố đi bộ, ẩm thực, chợ đêm…

Trong quá trình triển khai thực hiện, nhiều chính sách đã đưa ra những không có vốn đối ứng, vì nguồn vốn NSNN có hạn, dẫn đến nhiều SPDL chậm tiến độ thực hiện vì mới chỉ được phân bổ một phần kinh phí hoặc chưa được phân bổ kinh phí thực hiện làm cho SPDL chậm hình thành, không đạt kế hoạch đề ra. Bằng chứng là các chính sách như: Đề án: Sắp xếp, quản lý, phát triển sản phẩm, dịch vụ du lịch tại khu du lịch biển Hải Hoà; Hải Tiến; Đề án phát triển tuyến du lịch đường biển

- đảo Mê; Đề án: Nghiên cứu khôi phục Lễ tế Nam Giao - Thành Nhà Hồ định kỳ tổ chức phục vụ nhân dân và khách du lịch với kinh phí theo QĐ 290 là 1,3 tỷ đồng… hoặc một số chính sách trong quá trình thực hiện chưa đạt kế hoạch về kinh phí đưa ra như Đề án: Khai thác, phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt Đền Bà Triệu phục vụ khách du lịch với kinh phí theo QĐ 290 là 1,5 tỷ và Kế hoạch 156 là 3,5 tỷ đồng, nhưng khi thực hiện mới phân bổ được 400 triệu đồng; Đề án: Lựa chọn, đề xuất phương án tổ chức lễ hội tiêu biểu và các loại hình văn hoá dân gian đặc sắc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, phục vụ PTDL với kinh phí theo QĐ 29 là 4,5 tỷ đồng và Kế hoạch 156 là 8,5 tỷ đồng, nhưng cả giai đoạn chỉ phân bổ được 450 triệu đồng dẫn đến các SPLD văn hoá, lịch sử chậm hình thành và chưa phát huy được nhiều tác dụng.

Ba là, qui mô chi NSNN cho SPDL du lịch có tăng nhưng còn hạn chế là chưa gắn kết chặt chẽ được với mục tiêu phát triển đa dạng các SPDL của tỉnh. Chi NSNN chủ yếu tập trung cho SPDL biển đảo, sinh thái, cộng đồng mà chưa chú trọng nhiều đến SPDL lịch sử, văn hoá và SPDL mới, bổ trợ dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu chi NSNN cho các SPDL. Chính sách chi NSNN cho SPDL sinh thái, cộng đồng chủ yếu


tập trung vào khu vực miền núi và các khu vực khác chưa có nhiều. Theo số liệu khảo sát thì có 73,74% ý kiến được khảo hỏi cho rằng mức độ đầu tư của Nhà nước cho SPDL còn thấp và 87% ý kiến cho rằng mức vốn đầu tư cho du lịch trong thời gian tới cần tăng lên [phụ lục 2].

Bốn là, chi NSNN cho SPDL chưa gắn kết được với các nguồn lực khác. Cơ chế, chính sách chi NSNN chưa gắn kết được với nguồn lực phát triển như nông nghiệp, nông thông; du lịch công nghiệp; du lịch chăm sóc sức khoẻ… để tận dụng tối đa nguồn lực khác nhằm phát triển đa dạng các SPDL.

Năm là, hiệu quả chi NSNN cho SPDL chưa cao. Trong thời gian qua đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ phát triển SPDL, tuy nhiên các chính sách này đưa ra chưa có sự tập trung dẫn đến nguồn vốn NSNN phải chia nhỏ, dàn trải, chưa đầu tư triệt để cho các dự án quan trọng làm cho nhiều dự án phát triển SPDL chậm tiến độ thực hiện do chưa có nguồn vốn phân bổ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 274 trang tài liệu này.

Sáu là, chính sách thuế chưa khuyến khích được nhiều các cơ sở làng nghề phát triển SPDL làng nghề mở rộng qui mô sản xuất. Các cơ sở làng nghề du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá chủ yếu nộp thuế GTGT và thuế TNDN theo hình thức áp dụng tỷ lệ % trên doanh thu. Số lượng các cơ sở làng nghề du lịch có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống không phải nộp thuế nhiều. Do vậy, mặc dù thời gian qua ngành thuế nói chung và Cục thuế tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải cách thủ tục hành chính thuế, cải thiện môi trường kinh doanh cho đối tượng nộp thuế. Song tác động của giải pháp thuế đến sự phát triển của SPDL làng nghề trên địa bàn tỉnh chưa nhiều, hiệu quả chưa rõ rệt.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa - 18

a. Nguyên nhân chủ quan

Những hạn chế của giải pháp tài chính nhằm PTDL bền vững tỉnh Thanh Hóa xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, chi NSNN nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh thanh Hóa còn thấp, dàn trải vì nguồn thu NSNN không đủ trang trải.

Thanh Hoá là một tỉnh có xuất phát điểm kinh tế tương đối thấp, mặc dù trong những năm gần đây nền kinh tế đã có sự tăng trưởng mạnh, quy mô GRDP năm 2020 đã tăng lên cao đạt 229 nghìn tỷ đồng, gấp 2,39 lần so với năm 2014, đứng đầu các tỉnh Bắc Trung Bộ và đứng thứ 8 cả nước. GRDP tăng nhưng chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu phụ thuộc nhiều vào việc tăng các yếu tố


đầu vào như vốn, tài nguyên và số lượng lao động. Năng suất lao động xã hội thấp hơn so với bình quân chung cả nước (năng suất lao động bình quân năm 2020 của tỉnh đạt 101 triệu đồng, thấp hơn so với cả nước đạt 121 triệu đồng). Thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 43,5 triệu đồng/năm, bằng 70% GRDP bình quân đầu người thấp hơn cả nước và một số tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (cả nước 51,84 triệu đồng/năm; Đà Nẵng 89,65 triệu đồng/năm; Khánh Hoà 50,109 triệu đồng/năm; Bình Thuận 47,4 triệu đồng/năm; Quảng Nam 45,21 triệu đồng/năm). Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến nguồn thu NSNN của tỉnh Thanh Hoá thấp, các khoản chi NSNN cho CSHT; NNL; tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến và SPDL còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ nguồn thu của tỉnh không đủ trang trải cho quá nhiều nhiệm vụ nên những giải pháp tài chính của Nhà nước chưa có tính đột phá. Tổng thu NSNN của tỉnh Thanh Hoá năm 2020 đạt 28.967 triệu đồng tăng 940,7 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 3,35% so với năm 2019, so với các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chỉ thấp hơn thành phố Đà Nẵng (Đà Nẵng đạt 30.935 triệu đồng). Tuy thu NSNN tăng trưởng ổn định nhưng tỉnh vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thu, vẫn còn tình trạng thất thu về thuế, phí, lệ phí rất lớn. So với các lĩnh vực khác thì chi NSNN cho đầu tư PTDL còn chưa cao. Quá trình thực hiện đầu tư nhiều dự án CSHT chưa thật sự hiệu quả dẫn đến lãng phí nguồn vốn từ NSNN. Nhiều dự án CSHT đang xây dựng thì bỏ dở, hay đưa vào sử dụng nhưng không thu hút được khách du lịch.

Bên cạnh đó, tác động của đại dịch covid 19 đã khiến nhiều CSKDDL phá sản, tình trạng thất nghiệp gia tăng làm giảm nguồn thu từ NSNN, trong khi đó nhiệm vụ chi NSNN lại phải tăng lên để ổn định kinh tế xã hội.

Thứ hai, du lịch chưa được quy hoạch đầu tư bài bản, nhiều dự án du lịch đã được chi NSNN đầu tư nhưng lại lỗi thời, không hiệu quả. Giao thông tiếp cận một số khu, điểm du lịch còn nhiều khó khăn, nhất là ở khu vực miền núi; giao thông đường sông, đường biển phục vụ du lịch chưa thực sự phát triển.

Thứ ba, chưa có chính sách chi NSNN cho lĩnh vực du lịch một cách hợp lý, cân đối dẫn đến tình trạng phân bổ vốn ngân sách không đều. Quy mô chi NSNN cho du lịch tăng qua các năm nhưng dàn trải, không tập trung đúng trọng điểm nên lãng phí nguồn lực, hiệu quả chi không cao. Thiếu sự gắn kết giữa mục tiêu kế hoạch với nguồn lực tài chính khiến cho các mục tiêu không được đáp ứng tốt mà còn dẫn tới tình trạng chi tiêu kém hiệu quả. Để thực hiện mục tiêu PTDL bền vững tỉnh Thanh Hoá phải huy động tổng hợp các nguồn lực tài chính từ nhiều nguồn


khác nhau như: vốn NSNN, vốn đầu tư bên ngoài của các doanh nghiệp; nguồn vốn ODA, nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, các kênh huy động vốn ODA, FDI bị hạn chế, dẫn tới huy động từ nguồn vốn này khó. Nguồn lực chính đầu tư cho du lịch vẫn chủ yếu dựa vào nguồn chi NSNN, nguồn chi NSNN chưa được lồng ghép vào các lĩnh vực khác, dẫn đến chưa tận dụng tối đa nguồn vốn từ NSNN. Mỗi một chính sách đều có mục tiêu cụ thể với thời gian thực hiện khác nhau nên việc lồng ghép giữa các chính sách bị hạn chế.

Thứ tư, địa phương vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương nên các chính sách chi NSNN cho PTDL chưa được thực hiện kịp thời, các công trình CSHT du lịch chưa được đầu tư đúng mức.

Thứ năm, thông tin về các chính sách ưu đãi đối với các dự án du lịch còn chưa được công bố rộng rãi, kịp thời. (Theo kết quả điều tra thì có 52,37% doanh nghiệp được khảo sát cho biết thông tin về các chính sách ưu đãi về du lịch; 28,43% được biết thông qua tuyên truyền của chính quyền các cấp; 19,2% được biết qua phương tiện thông tin đại chúng) [phụ lục 2]. Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi về đầu tư PTDL thiếu tính cụ thể, gây khó khăn cho các nhà đầu tư muốn tham gia đầu tư PTDL. Vì vậy, để triển khai được những dự án ưu đãi của nhà nước, nhà đầu tư phải mất nhiều thời gian, chi phí, từ đó dẫn đến dự án đầu tư chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn đầu tư vào PTDL của tỉnh. Hơn nữa, khi tổ chức thực hiện do trình độ, năng lực của một số cán bộ quản lý ở các cấp, các ngành còn hạn chế, nhất là ở các cấp chính quyền xã, đã làm cản trở, gây khó khăn cho các đối tượng được hưởng ưu đãi.

Thứ sáu, việc gắn kết, điều chỉnh, sử dụng nguồn vốn NSNN cho các chính sách ưu đãi PTDL còn gặp nhiều khó khăn do mỗi chính sách đều có quy định, cơ chế quản lý riêng, cách phân bổ, hạch toán, quyết toán và đánh giá kết quả thực hiện khác nhau. Nếu có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp với yêu cầu thực tế thì phải chờ Sở Tài chính đánh giá, rà soát, trình UBND tỉnh phê duyệt mất rất nhiều thời gian chờ đợi. Mỗi một chính sách ban hành đều có mục tiêu là đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, tuy nhiêu nếu phải chờ đợi trong thời gian dài thì hiệu quả của chính sách đã giảm và không kích thích được nhà đầu tư bỏ vốn vào nữa.

Thứ bảy, do nhận thức, trách nhiệm của một số cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đang còn hạn chế chưa thực sự quan tâm, chú ý đến PTDL bền vững, chưa ưu tiên nguồn lực ngân sách cho PTDL bền vững.


Thứ tám, chưa có chính sách chi NSNN cho sự hợp tác, liên kết phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong vùng thật sự hiệu quả; đó là những yếu tố làm cho Thanh Hóa chưa phát huy hết được tiềm năng, lợi thế du lịch của tỉnh.

b. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa thật sự ổn định, rõ ràng và ưu đãi cho địa phương. Chưa có cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ từ ngân sách trung ương đối với tỉnh đất rộng người đông, địa hình phức tạp và bị chia cắt mạnh như tỉnh Thanh Hoá. Là địa phương chịu ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt thường xuyên xảy ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về kết cấu hạ tầng, tài nguyên du lịch, sản xuất và đời sống của Nhân dân. Trong khi đó, Trung ương chưa có các cơ chế, chính sách đặc thù đối với các tỉnh đất rộng, người đông, địa hình đa dạng, nhiều đơn vị hành chính, có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo. Mặt khác, một số quy định pháp luật của trung ương còn chồng chéo, mâu thuẫn, việc ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật còn chậm, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, quy hoạch, đất đai, môi trường, gây khó khăn trong việc áp dụng và tổ chức thực hiện.

Chính sách thuế TNDN khuyến khích đầu tư vào CSHT được ban hành cho cả nước, không có sự ưu đãi riêng cho địa phương nào, dẫn đến tỉnh sẽ khó khăn trong quá trình áp dụng chính sách, nhất là các ưu đãi sẽ thực hiện thế nào. Với thời gian ưu đãi đầu tư ngắn, doanh nghiệp đầu tư trong giai đoạn đầu bỏ rất nhiều chi phí, doanh nghiệp sẽ không thể thu hồi kịp vốn đầu tư, dẫn đến sẽ khó thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào PTDL bền vững.

Thứ hai, do điều kiện tự nhiên của tỉnh Thanh Hoá. Thanh Hoá là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch rất đa dạng, nhưng dàn trải trên địa bàn rộng lớn nên khó khăn trong công tác đầu tư, đặc biệt là hạ tầng tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn còn chưa hoàn chỉnh. Do vậy với nguồn chi NSNN có hạn, việc đầu tư PTDL sẽ bị hạn chế.

Thứ ba, do tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư kinh doanh du lịch. Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt, cơ cấu lại đầu tư công, ảnh hưởng đến nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KTXH từ nguồn vốn ngân sách Trung ương.

Thứ tư, các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá phần lớn có quy mô nhỏ và hộ cá thể, tiềm lực cạnh tranh, khả năng quản trị, tính chuyên nghiệp chưa


cao; một số khu, điểm du lịch phát triển tự phát, không theo quy hoạch từ những năm trước, tạo nên các SPDL kém chất lượng (như khu du lịch biển Hải Hòa). Do vậy ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các chính sách hỗ trợ PTDL từ Nhà nước bị hạn chế.

Thứ năm, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra ở nhiều địa phương, đặc biệt dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp đã gây ra thiệt hại lớn về sản xuất, ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp du lịch và đời sống của nhân dân trong tỉnh.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2, luận án đã trình bày, phân tích bức tranh tổng thể về PTDL của tỉnh Thanh Hoá và các giải pháp tài chính đã sử dụng đối với 4 yếu tố chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở thúc đẩy PTDL bền vững. Các nội dung chính của luận án được đánh giá cụ thể:

Thứ nhất, khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Thanh Hoá theo tiêu chí PTBV.

Thứ hai, thực trạng các giải pháp tài chính như: chi NSNN, thuế, tín dụng Nhà nước đối với các yếu tố chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở nhằm thúc đẩy PTDL bền vững ở tỉnh Thanh Hoá thời gian qua.

Thứ ba, đánh giá chung về thực trạng các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hoá. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình sử dụng các giải pháp đó.

Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế của các giải pháp tài chính đó kết hợp với định hướng PTDL của tỉnh sẽ là cơ sở để NCS đưa ra các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy PTDL bền vững tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới ở chương 3.


Chương 3

HOÀN THIỆN CÁC GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH THANH HÓA


3.1. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TỈNH THANH HÓA ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội và phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

3.1.1.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

Thứ nhất, xây dựng và phát triển Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu, phấn đấu đến năm 2025, Thanh Hoá sẽ nằm trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước và là một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển kinh tế ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại, người dân có mức sống cao hơn bình quân cả nước.

Thứ hai, phát huy mọi tiềm năng, lợi thế để phát triển tỉnh Thanh Hoá nhanh và bền vững với công nghiệp nặng, nông nghiệp quy mô lớn, giá trị gia tăng cao làm nền tảng. Phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến chế tạo và dịch vụ logistics là đột phá. Coi phát triển du lịch là kinh tế mũi nhọn với 3 yếu tố chính là du lịch biển; du lịch sinh thái cộng đồng; du lịch văn hoá, lịch sử.

Thứ ba, phát triển kinh tế xã hội gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ cao; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, tạo đột phá trong cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư, tài chính và phân cấp quản lý đặc thù, phù hợp nhằm thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là từ khu vực kinh tế tư nhân cho phát triển, nhất là phát triển CSHT và những vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế có tiềm năng, lợi thế.

Thứ năm, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá phải gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường sinh thái.


3.1.1.2. Định hướng phát triển du lịch bền vững tỉnh Thanh Hoá đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

Phát triển du lịch bền vững là một bộ phận quan trọng đối với quá trình phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hoá. Vì vậy, định hướng PTDL bền vững tỉnh Thanh Hoá được thể hiện trên các nội dung như:

Thứ nhất, PTDL phải gắn liền với qui hoạch, kế hoạch phát triển KTXH của tỉnh Thanh Hoá, qui hoạch phát triển CSHT, và các qui hoạch khác nhằm chuyển dịch CCKT ngành dịch vụ theo hướng PTBV, đồng thời gắn với PTDL chung của cả nước.

Thứ hai, PTDL trở thành ngành kinh tế mũi nhọn với tỷ trọng của du lịch ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực phát triển KTXH, phấn đấu để du lịch Thanh Hóa sớm trở thành trọng điểm PTDL của cả nước.

Thứ ba, PTDL theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển SPDL theo hướng đa dạng, nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm bao gồm: SPDL nghỉ dưỡng biển; du lịch văn hoá, lịch sử; du lịch sinh thái cộng đồng, làng nghề; du lịch nông nghiệp, nông thôn…

Thứ tư, PTDL bền vững, gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; thích ứng với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội;

Thứ năm, PTDL hài hòa, hợp lý giữa các khu vực trong tỉnh. Đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển, khai thác các giá trị văn hóa dân tộc khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa, góp phần xóa đói giảm nghèo và giảm dần khoảng cách giữa khu vực miền núi và đồng bằng.

Thứ sáu, PTDL phù hợp theo qui luật thị trường và xu thế PTDL trên thế giới, trong nước; đổi mới nội dung, hình thức vận động, thu hút đầu tư PTDL tối đa để đáp ứng yêu cầu PTDL trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Thứ bảy, PTDL gắn với tăng cường chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ phục vụ PTDL trong tình hình mới. Trong bối cảnh dịch bệnh covid - 19 vẫn diễn biến phức tạp và ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành du lịch, công nghệ số là giải pháp an toàn giúp CSKDDL có thể phục hồi. Bên cạnh đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các CSKDDL để đối phó với dịch bệnh covid 19.

Thứ tám, phát triển du lịch hướng đến việc liên kết giữa Thanh Hoá với các tỉnh, thành phố khác trong đầu tư khai thác, phát triển du lịch.

Xem tất cả 274 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí