ngân hàng. Thị trường phái sinh đã được hình thành và phát triển tại Việt Nam, giúp ngân hàng có thể đẩy mạnh hoạt động ngoại tệ phái sinh gia tăng lợi nhuận cho mình. Dù là hoạt động dịch vụ ngoại tệ giao ngay hay phái sinh, BIDV luôn phải quan tâm tới dự báo biến động về tỷ giá cũng như duy trì một trái thái ngoại tệ hợp lý.
Đối với hoạt động bảo hiểm: Ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm của mình, kết hợp với một số các dịch vụ chéo để thu hút sự tham gia của khách hàng. Đồng thời giới thiệu các sản phẩm bảo hiểm của mình đến khách hàng theo nhiều kênh, có thể qua quảng cáo, truyền thông, có thể thông qua các giao dịch viên,... Các sản phẩm bảo hiểm được xây dựng cho từng nhóm đối tượng khách hàng gắn liền với quyền lợi tăng thêm cho hợp lý. Để đảm bảo hoạt động bảo hiểm tránh được các rủi ro tiềm ẩn một cách tối đa, BIDV có thể thực hiện quản trị rủi ro 3 lớp phòng về, thực hiện kiểm soát và cảnh báo rủi ro sớm. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra được những biện pháp ngăn ngừa phù hợp, kịp thời và hiệu quả.
3.2.1.3. Nhóm giải pháp giảm thiểu chi phí của ngân hàng
Cơ sở để xuất giải pháp:
Chi phí hoạt động là một trong thành tố chính cấu tạo tổng chi phí của BIDV trong giai đoạn nghiên cứu. Trong khi đó, chi phí là một trong hai nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng trong quá trình hoạt động, bên cạnh thu nhập. Có thể nói rằng, chi phí hoạt động tác động trực tiếp, mạnh tới hiệu quả của BIDV trong giai đoạn nghiên cứu. Cũng trong giai đoạn này khi quy mô của ngân hàng được mở rộng đã kéo theo sự gia tăng mạnh mẽ của chi phí, kìm hãm sự tăng trưởng của ngân hàng. Từ đây ngân hàng cần có giải pháp để tối thiểu hóa danh mục này, góp phần cải thiện hiệu quả kinh doanh của mình, gia tăng cạnh tranh với đối thủ.
Nội dung giải pháp
Chi phí hoạt động của BIDV vẫn quá lớn, tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Trong đó, chi cho nhân viên vẫn luôn chiếm tỷ trọng gần 60% tổng chi cho hoạt động. Điều này cho thấy rằng ngân hàng có thể giảm thiểu chi phí từ chi cho nhân viên để giảm chi cho hoạt động. Từ đây, ngân hàng có thể lên chính sách giảm tối đa
lao động thủ công trong các lĩnh vực chuyên môn, điều hành thông qua sử dụng các kỹ thuật công nghệ cao để bù đắp. Đây cũng là xu hướng chung của thế giới và hiện nay BIDV vẫn còn hạn chế trong sử dụng những thiết bị này. Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng chỉ tiêu đánh giá năng suất lao động giữa các nhân viên với nhau, dựa vào đó phân bổ chi lương hiệu quả. Một vấn đề nữa ngân hàng cần quan tâm đó là hoạt động kiểm soát nội bộ với cán bộ công nhân viên, từ đó làm cơ sở để đánh giá hiệu quả phân bổ công việc, mức sinh lời trên một nhân viên. Ngân hàng có thể tiến hành so sánh mức sinh lời của các thiết bị và công nghệ đem lại với mức sinh lời trên một nhân viên để đưa ra quyết định về giảm thiểu chi phí cho nhân viên.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Hợp Một Số Chiến Lược Phát Triển Của Chính Phủ
- Định Hướng, Chiến Lược Phát Triển Của Bidv Đến Năm 2030
- Nhóm Giải Pháp Nâng Cao Thu Nhập Của Hoạt Động Phi Tín Dụng
- Tăng Cường Tính Minh Bạch, Công Khai Thông Tin Và Xếp Hạng Tín Nhiệm Khách Hàng
- Ngân Hàng Nhà Nước Cần Đẩy Mạnh Công Tác Quản Lý, Thanh Tra Của Mình Đối Với Các Tổ Chức Tín Dụng
- Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam - 26
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
Bên cạnh đó, chi cho các hoạt động quản lý công vụ và chi cho tài sản vẫn còn khá lớn. Việc mở rộng hoạt động của ngân hàng có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng của các khoản chi phí này. Tuy nhiên, ngân hàng cần có chính sách kiểm soát chặt chẽ việc gia tăng của các khoản chi phí này, căn cứ so sánh với thu nhập và mức sinh lời của các chi nhánh để đưa ra các quyết định liên quan.
3.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao an toàn tài chính và thanh khoản trong hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
3.2.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao an toàn tài chính
Cơ sở đề xuất giải pháp:
BIDV hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với tiền đề dựa trên niềm tin của khách hàng với mình. Để có thể thu hút được khách hàng, gia tăng tính trung thành và niềm tin của khách hàng với mình, ngân hàng phải đảm bảo được yếu tố an toàn tài chính của mình. Các hệ số nợ xấu cũng như mức độ tổn thất cần được giảm thiểu, trong khi hệ số hiệu quả cần được nâng cao để gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Nội dung giải pháp:
Đầu tiên là cơ cấu lại các khoản tiền gửi hợp lý. Trong thời gian nghiên cứu hoạt động của BIDV cho thấy rằng an toàn thanh khoản của ngân hàng ở mức thấp trong khi tỷ lệ an toàn tín dụng lại vượt mức chuẩn quy định của nhà nước. Một trong những nguyên nhân chung dẫn tới hệ quả này của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam là do sự mất cân đối kỳ hạn của các khoản vốn huy động và vốn sử
dụng (huy động vốn chủ yếu trong ngắn hạn nhưng cho vay trong thời gian trung và dài hạn). Từ đây cho thấy rằng BIDV nói riêng, các ngân hàng thương mại nói chung cần phải có biện pháp cơ cấu lại sản phẩm tiền gửi theo hướng gia tăng nguồn vốn huy động trong trung và dài hạn. Việc cơ cấu lại sản phẩm tiền gửi sẽ giúp cho ngân hàng gia tăng được an toàn tín dụng của mình. Đồng thời ngân hàng cũng cần gia tăng các tài sản có tính thanh khoản cao của mình để góp phần cải thiện an toàn thanh khoản.
Mặt khác, BIDV cần phải quản lý các khoản nợ xấu. Quy mô tài sản của BIDV gia tăng tốc độ mạnh trong giai đoạn gần đây nhưng lợi nhuận mà ngân hàng đạt được hoàn toàn không tương xứng, ROA còn ở mức khiêm tốn so với các NHTM khác trong nước. Tổng nợ xấu của BIDV vẫn gia tăng trong các năm mặc dù với tốc độ đã chậm lại, đặc biệt các khoản nợ khó đòi vẫn tăng trưởng qua từng năm. Việc quản lý các khoản nợ xấu cần được BIDV chú ý, nhất là trong giai đoạn mới sáp nhập MHB đã gia tăng quy mô của BIDV không chỉ trong số lượng mạng lưới, nhân sự mà còn cả sự kết hợp về quản lý. Trong quá trình quản lý và giải quyết nợ xấu, BIDV cần có những đánh giá chính xác về các khoản nợ, nên thực hiện ưu tiên xử lý khoản nợ nào trước, cần có một chiến lược rõ ràng đối với việc giải quyết các khoản nợ xấu của mình. Ngoài ra,ngân hàng cần có biện pháp quản lý nợ xấu theo lĩnh vực, như: lĩnh vực bất động sản, tiêu dùng và các dự án có thời gian trên một năm. Việc xử lý những khoản nợ tồn đọng, dự đoán những khoản nợ có thể xảy ra trong tương lai của ngân hàng còn yếu đã dẫn tới sự gia tăng tích lũy của các khoản nợ xấu cho mình. Kiểm soát chặt chất lượng tín dụng theo đối tượng khách hàng (tư nhân hay doanh nghiệp) qua xây dựng và phân tích khả năng thanh toán của khách hàng dựa trên bảng đánh giá hệ số tín nhiệm của ngân hàng; quản lý theo lĩnh vực cấp tín dụng (đặc biệt đối với những lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao đã nêu trên) là việc trước mắt ngân hàng cần thực hiện. Đồng thời, ngân hàng cần thúc đẩy nhanh việc giải quyết các khoản nợ đang tồn tại với một chiến lược, định hướng theo thời gian, kết hợp với những quy định của nhà nước.
Bên cạnh đó, BIDV có thể kết hợp tận dụng VAMC để giảm bớt gánh nặng trong hoạt động tín dụng, góp phần làm cho kết quả tài chính hiệu quả hơn, gia tăng
được năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, đây không phải là một giải pháp lâu dài ngân hàng có thể áp dụng. BIDV có thể học tập các ngân hàng thương mại trên thế giới với kênh chứng khoán hóa các khoản nợ của mình thông qua phát hành ra các CDO để loại bớt được các khoản nợ của mình ra khỏi bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên khi thực hiện chứng khoán hóa, BIDV cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và một cơ chế quản lý, đánh giá và phân tích kỹ để tránh để tình trạng như những NHTM Mỹ trong giai đoạn 2005-2008. Khi thực hiện chứng khoán hóa, ngân hàng cần phân chia rõ rủi ro của các khoản nợ cũng như có một tiêu chí chung khi gộp các khoản nợ với nhau để thành lập các gói bán nợ.
Kết hợp với việc gia tăng vốn huy động, ngân hàng cũng cần chú trọng đến chất lượng các khoản cho vay của mình. Từ đó có thể hạn chế được rủi ro về nợ xấu và rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Việc áp dụng và thực hiện theo các chuẩn mực quốc tế cần được ngân hàng thực hiện theo lộ trình để không chỉ giảm thiểu được rủi ro hoạt động, mà còn có thể gia tăng khả năng cạnh tranh với đối thủ trong khu vực và trên thế giới.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao khả năng thanh khoản
Cơ sở đề xuất giải pháp:
Khả năng thanh khoản cao sẽ giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, giúp hoạt động cho vay/ tiền gửi có hiệu quả hơn, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Từ đây đề xuất giải pháp ổn định tỷ lệ dữ trữ thanh khoản, hệ số đảm bảo tiền gửi, tỷ lệ thanh khoản của tài sản và tỷ lệ LTDR.
Nội dung giải pháp:
Quy mô tài sản có luôn là một trong các chỉ tiêu được các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm lấy làm căn cứ đánh giá tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại. Tài sản có được đánh giá chủ yếu dựa trên tín dụng và đầu tư (liên quan chính đến đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp), qua đó đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng cũng như đảm bảo chất lượng của họ. Như vậy, việc nâng cao chất lượng tài sản có của ngân hàng sẽ luôn gắn liền, song song với việc gia tăng hoạt động giải quyết nợ tồn đọng của các ngân hàng, giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu của họ trong quá trình kinh doanh.
Mặt khác, ngân hàng luôn gặp khó khăn trong huy động vốn, thể hiện qua việc tỷ lệ dư nơ cho vay/tiền gửi luôn vượt 100%. Ngân hàng cần xây dựng chiến lược gia tăng quy mô vốn huy động trên thị trường cấp 1 thay cho thị trường cấp 2 như hiện nay. Rút kinh nghiệm từ những ngân hàng Trung Quốc và các ngân hàng trong khu vực về huy động vốn, BIDV có thể gia tăng huy động nguồn vốn từ kênh bán lẻ. Ngân hàng cần có những sản phẩm, dịch vụ để thu hút được nguồn vốn từ các đối tượng này để bổ sung vào phần thiếu hụt trong cung ứng vốn trên thị trường. Giống với thực tế của các ngân hàng thương mại của Việt Nam hiện nay, BIDV mặc dù có số lượng chi nhánh khổng lồ, mạng lưới phủ sóng trên khắp cả nước, nhưng số lượng chi nhánh vẫn đa số tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn. Ví dụ như số lượng chi nhánh, phòng giao dịch của BIDV tại Hà Nội là 198, thành phố Hồ Chí Minh có 133; trong khi tại Hà Giang và Lai Châu, Bình Phước chỉ có 4 chi nhánh và phòng giao dịch, Bình Thuận chỉ có 3 (Phụ lục 5). Nói cách khác, ngân hàng mới chỉ chú trọng huy động vốn từ những tỉnh, thành phố lớn, chưa tiếp cận được với những người dân ở nông thôn hoặc vùng sâu, vùng xa.
Hoạt động huy động và sử dụng vốn tiền gửi và vốn vay của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào việc phân tích và dự báo thị trường trong trung và dài hạn. Từ đây ngân hàng cần củng cố và gia tăng chất lượng dự báo, phân tích thị trường để lấy đó làm căn cứ đưa ra được những biện pháp quản lý rủi ro thanh khoản, ứng phó kịp thời với những tình huống bất thường của thị trường. Cũng dựa trên phân tích và dự báo của thị trường, ngân hàng sẽ đưa ra được chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn trong trung và dài hạn hợp lý, giảm thiểu tình trạng thiếu vốn huy động như hiện nay.
Viêc quản trị, giám sát và điều hành hệ thống của ngân hàng vẫn là yếu tố quan trọng để gia tăng được chất lượng trong an toàn tín dụng và an toàn thanh khoản. Với một quy mô hoạt động quá rộng, sự phân bổ chi nhánh trên khắp địa bàn dẫn tới sự khó đảm bảo an toàn tín dụng, an toàn thanh khoản đồng đều giữa các chi nhánh và phòng giao dịch. Sự phối hợp giữa trụ sở chính với các chi nhánh trong triển khai quản trị rủi ro cần hết sức nhịp nhàng. Việc chuyển giao và tiếp nhận thông tin giữa trụ sở và chi nhánh cần kịp thời, tránh sự chậm trễ dẫn tới chất lượng quản lý rủi ro thanh khoản. Cùng với đó, giám sát nội bộ sẽ là biện pháp để ngân hàng ngăn ngừa sự tích tụ nợ xấu trong tương lai đến từ các chi nhánh. Việc duy trì một tiêu
chuẩn tín dụng đúng mức cần được tất cả các chi nhánh, phòng giao dịch thực hiện, đảm bảo chất lượng của tất cả các khoản vay. Hệ thống công nghệ thông tin và cơ sở vật chất cơ bản cần được cung cấp đồng đều tại tất cả các chi nhánh và phòng giao dịch, như vậy mới có thể cung cấp thông tin, dữ liệu kịp thời, đầy đủ và chính xác, góp phần thực hiện được công tác quản trị rủi ro đạt được hiệu quả tối đa.
Sau cùng là tăng cường quản trị về chiến lược kinh doanh. Xét trên góc độ quản trị, các ngân hàng thương mại sẽ được kiểm soát và điều hành bởi các cơ chế và quy định chung của nhà nước cũng như của riêng bản thân ngân hàng. Điều kiện đầu tiên thực hiện được việc kiểm soát và điều hành đó là các ngân hàng cần phải xác định được quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên khác nhau trong hệ thống. Dựa trên đó, các nguyên tắc, quy trình và thủ tục khi ra quyết định trong ngân hàng sẽ được thành lập với mục đích ngăn chặn và giảm thiểu việc lạm dụng quyền lực, rủi ro. Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý của ngân hàng cũng đồng thời được hình thành. Như vậy, cấu trúc quản trị của ngân hàng cần được xây dựng, với mấu chốt quan trọng là một hội đồng quản trị có đủ năng lực chỉ đạo và kiểm soát doanh nghiệp [49]. Từ đây cho thấy rằng, để gia tăng chất lượng quản trị chiến lược kinh doanh, ngân hàng cần vạch định rõ chiến lược phát triển của mình theo mục tiêu, theo kế hoạch, theo thời gian, theo đối tượng chủ thể dựa trên việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản trị của ngân hàng.
Là một chủ thể có nguồn vốn chủ yếu từ việc huy động từ bên ngoài gắn liền với nguyên tắc hoàn trả, các ngân hàng thường gắn rủ ro với hoạt động kinh doanh của mình. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng thương mại là đảm bảo được khả năng thanh toán, chi trả cho khách hàng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một ngân hàng thương mại cổ phần có phạm vi hoạt động rộng, số lượng chi nhánh rộng lớn đòi hỏi BIDV cần có một chiến lược kinh doanh tổng thể và đồng đều. Thông qua khoa học công nghệ tiên tiến cao, ngân hàng thực hiện quản lý khoa học trong hoạt động, khai thác cơ sở dữ liệu đầy đủ và chính xác để phục vụ cho quá trình điều hành và quản lý của lãnh đạo ngân hàng. Ngân hàng cần đánh giá và phân tích tình hình tài chính của từng chi nhánh, từ đó đưa ra những biện pháp kinh doanh phù hợp để gia tăng được hiệu quả của mình.
3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng
Cơ sở đề xuất giải pháp:
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để ngân hàng có thể phát triển bền vững trong tương lai. Yếu tố con người quyết định đến tính an toàn tài chính, khả năng thanh khoản, gia tăng thu nhập và giảm thiểu chi phí cho ngân hàng. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh qua mọi chỉ tiêu, khía cạnh phát triển của ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, chất lượng nguồn nhân lực không thể không nhắc tới.
Nội dung giải pháp:
- Tiêu chuẩn hóa chức danh công việc
Việc xây dựng một quy tắc chuẩn về chức danh công việc, một hệ thống tiêu chuẩn nghề nghiệp trong hệ thống ngân hàng tương đương với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Bộ tiêu chuẩn sẽ phản ánh các chức danh, ví trị công việc để làm cơ sở cho việc tiêu chuẩn hóa cán bộ theo các cấp đào tạo khác nhau. Việc chưa tiêu chuẩn hóa chức danh công việc là một hạn chế chung của tất cả các ngành tại Việt Nam. Do đó, để có thể phát triển trong khu vực và thế giới, BIDV cần triển khai xây dựng một khung tiêu chuẩn hóa về chức danh công việc cho nguồn nhân lực của mình gắn liền với vị trí, chức danh làm việc của người lao động.
Hiện nay BIDV đã đưa ra được tên chức danh nghề nghiệp khi tuyển dụng. Theo đó người lao động sẽ biết được yêu cầu cần có cũng như những nhiệm vụ chính mình sẽ làm cho vị trí nghề nghiệp đó (một số chức danh vẫn chưa được đề cập). Tuy nhiên, cơ hội mà người lao động sẽ đạt được khi làm việc đó, những lợi ích họ có thể đạt được, cũng như chức năng của họ đối với vị trí tuyển dụng vẫn chưa được đề cập tới. BIDV có thể học tập kinh nghiệm từ một trong những nước Đông Nam Á đã rất thành công trong việc tiêu chuẩn hóa chức danh công việc của lĩnh vực tài chính ngân hàng là Singapore với mô hình FICS (bộ chuẩn năng lực ngành tài chính- Financial Industry Competency Standards).
FICS là bộ chuẩn năng lực ngành tài chính Singapore được xây dựng bởi hàng trăng chuyên gia ngành tài chính hàng đầu và sự hỗ trợ của bộ tài chính Singapore, đã được sử dụng cho hơn 100.000 cán bộ ngân hàng của họ trong nước. FICS được chia theo các tiểu ngành, họ nghề và cấp độ vai trò công việc. Theo đó, ngân hàng thương
mại sẽ được chia thành các họ nghề, bao gồm: quản lý tiền; phân tích tín dụng; tài trợ dự án; quan hệ khách hàng lớn; quan hệ khách hàng vừa và nhỏ; kinh doanh dịch vụ; tư vấn cơ cấu tài chính; tài trợ thương mại; và xử lý chứng từ thanh toán quốc tế. Mỗi nghề đều sẽ được chia thành 6 mức độ của vai trò công việc. Trong đó, từ cấp độ 1 đến 3 sẽ là các công việc đơn giản, yêu cầu lặp đi lặp lại theo quy trình. Người lao động trong các cấp độ này không đòi hỏi tính sáng tạo cao nên sẽ bị hạn chế về quyền chủ động và thẩm quyền phê duyệt kiểm soát. Từ cấp độ 4 đến 6 đòi hỏi tính sáng tạo, những công việc trong các cấp độ này không dự đoán được và rất phức tạp. Do vậy, người làm việc trong các cấp độ cao này sẽ được giao quyền chủ động, thẩm quyền phê duyệt, kiểm soát và có trách nhiệm cao [46]. Nhờ việc phân chia rõ quyền lợi, nhiệm vụ của từng vai trò công việc, người lao động có thể tự chủ động xây dựng một lộ trình công danh cá nhân của riêng mình, phát triển năng lực của bản thân trong quá trình làm việc để đạt được mục tiêu nghề nghiệp trong tương lai.
- Nâng cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng cho người lao động.
+ Mở các lớp, chương trình đào tạo cho cán bộ công nhân viên.
BIDV trong nhiều năm liên tục mở các lớp, chương trình đào tạo cho nhân lực của mình để gia tăng trình độ nghiệp vụ, kỹ năng cũng như sử dụng các sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu hướng tới năm 2030, nhân lực BIDV sẽ phải chịu áp lực, như: sự cạnh tranh từ các ngân hàng đối thủ; yêu cầu ngày càng phức tạp của thị trường; sự phát triển của khoa học công nghệ; việc áp dụng các sản phẩm, dịch vụ mới,… Từ đây đòi hỏi, BIDV cần luôn chú trọng công tác đào tạo cho toàn bộ cán bộ công nhân viên của mình ở mọi vị trí công việc để có thể nâng cao được trình độ nghiệp vụ và kỹ năng của họ. Đồng thời, để giảm thiểu rủi ro đạo đức có thể phát sinh trong quá trình hoạt động, việc mở các lớp đào tạo nhân lực để nâng cao đạo đức nghề nghiệp cũng là một điểm ngân hàng cần chú trọng. Do trong ngân hàng có nhiều vị trí công việc, trong quá trình mở các lớp đào tạo, ngân hàng cần hướng tới các đối tượng của mình để có những mục đích riêng cần đạt được trong các lớp đào tạo đó.
Thứ nhất, đối với cán bộ quản riêng cho các cán bộ quản lý (từ quản lý cấp cao đến quản lý cấp trung), ngân hàng cần hướng tới mở các chương trình đạo tạo