Đối với NLĐNC khu vực KTPNN ít tham gia vào các hoạt động tại địa phương, để tăng cường sự tham gia của họ trong các hoạt động cộng đồng cần cung cấp những kiến thức, kỹ năng để thân chủ thay đổi nhận thức và nâng cao năng lực. NVCTXH phải tổ chức các hoạt động truyền thông để tác động đến chính quyền địa phương tạo điều kiện huy động sự tham gia của chính NLĐNC vào các hoạt động tại cộng đồng. Việc tuyên truyền phải được thực hiện qua nhiều hình thức: trực tiếp hoặc gián tiếp; qua phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các buổi sinh hoạt nhóm,… tại địa phương. Cung cấp cho NLĐNC về thông tin các chính sách, chương trình, DVCTXH hiện đang triển khai tại địa phương, lồng ghép qua cuộc họp nhóm nói về quyền con người, đặc biệt quyền của nhóm thiệt thòi. Tăng cường tổ chức các hoạt động sinh hoạt nhóm trong cộng đồng và thúc đẩy sự tham gia của NLĐNC khu vực KTPNN tham gia vào các hoạt động, qua đó NLĐNC sẽ được cung cấp thông tin về các chương trình, chính sách, các dịch vụ hỗ trợ cũng như nâng cao được sự hiểu biết, tăng cường được năng lực để có cách thức giải quyết vấn đề của họ để hòa nhập cộng đồng tại nơi đến tốt hơn.
2.3.2. Tiếp cận dựa trên thuyết về quyền con người
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình lập kế hoạch và tiến trình thực hiện các hoạt động CTXH.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo quyền, nhân viên CTXH cần dựa trên hệ thống quyền con người để xây dựng các phương pháp và hoạt động của những mô hình phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo những bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Trên phương diện vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền có đề cập đến tầm quan trọng của nhà nước và chính phủ trong mối quan hệ tương quan với người dân về mặt quyền và nghĩa vụ. Đây là quá trình trong đó cá nhân và nhóm có được quyền hành, tiếp cận được tài nguyên và kiểm soát đời sống bản thân để đạt được mục tiêu cao nhất của riêng mình và của tập thể. Tăng quyền lực là nới rộng, phát triển vốn và năng lực của cá nhân và tập thể để họ có thể tham gia, thương thuyết, tác động, kiểm soát và nắm giữ những thể chế ảnh hưởng đến việc sử dụng DVCTXH trong đời sống của họ. Thuyết tăng quyền khẳng định (1) tất cả mọi người đều có những kỹ năng, sự hiểu biết và những khả năng cần được nhận ra; (2) quyền được lắng nghe, quyền điều khiển cuộc sống, quyền lựa chọn tham gia… là những quyền tự nhiên của con người; (3) bất công, bất bình đẳng (chứ không phải sự kém cỏi của cá
nhân) là nguyên nhân của mọi khó khăn và vấn nạn của con người; (4) mỗi người là “chuyên gia” các vấn đề liên quan đến đời sống và nhu cầu của chính mình.
Vận dụng cách tiếp cận theo quyền trong luận án
Tiếp cận dựa trên quyền hướng đến việc cải thiện hoàn cảnh của con người, tập trung vào nhu cầu, vấn đề và tiềm năng của họ. Theo cách tiếp cận này đề cập đến những vấn đề luôn được coi là trọng yếu đối với sự phát triển, như là thực phẩm, nước, nhà ở, y tế, giáo dục, an toàn, tự do. Hiện nay, số lao động đổ về các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh/thành phố rất lớn. Vấn đề tiếp cận quyền an sinh xã hội của người dân nói chung và NLĐNC nói riêng đã được chế định trong Hiến pháp, việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính trong các chính sách và chương trình phát triển. Ngoài quyền tiếp cận an sinh xã hội thì bản thân NLĐNC cần được tiếp cận về các dịch vụ y tế, việc làm, quyền giáo dục, y tế cho con họ.
Đối với mỗi chương trình dự án, dịch vụ cần được áp dụng trong từng giai đoạn. Điều này là tạo cơ hội cho nhiều NLĐNC có thể tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi các chính sách công, thụ hưởng các dịch vụ mà có ảnh hưởng đến các quyền con người của họ, đồng thời bảo đảm rằng những chủ thể có trách nhiệm phải thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm các quyền của NLĐNC trong thực tế.
Vận dụng cách tiếp quyền trong nghiên cứu nhằm làm rõ những chủ thể quyền, chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ [40]. Trọng tâm sự can thiệp công tác xã hội theo thuyết tăng quyền lực là chuyển từ việc đánh giá những thiếu hụt và những rủi ro sang việc xây dựng nội lực và khả năng từ việc nhận ra những giới hạn cá nhân đến việc đấu tranh cho công bằng xã hội ở cả ba cấp độ vi mô, trung mô và vĩ mô. Vì vậy, nhân viên CTXH xem xét quyền của NLĐNC khu vực KTPNN trong tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận được giáo dục công lập, các dịch vụ xã hội cơ bản cũng như thông tin về dịch vụ, các chính sách về việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi,… đã được đảm bảo chưa. Ngoài ra, bản thân NLĐNC cũng tự nhận thức, nâng cao hiểu biết của họ về quyền của họ, để họ chủ động tiếp cận và sử dụng các DVCTXH, từ đó hỗ trợ tăng cường năng lực trong việc giải quyết các vấn đề của NLĐNC tại nơi đến.
NLĐNC khu vực KTPNN là lực lượng lao động tích cực trên thị trường lao động và có đóng góp rất nhiều cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Tuy nhiên, họ cũng là nhóm cư dân phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn trong quá trình làm việc và sinh sống tại nơi đến. Họ chịu nhiều thiệt thòi, dễ bị tổn thương, nhưng mạng lưới an sinh xã hội từ trước đến nay chưa bao phủ nhiều đến họ, đặc biệt
Có thể bạn quan tâm!
- Lý Luận Về Người Lao Động Nhập Cư Làm Việc Ở Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Lý Luận Về Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Và Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Các Loại Hình Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Khái Quát Về Đặc Điểm Kinh Tế, Chính Trị, Xã Hội Và Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
- Đặc Điểm Về Học Vấn, Chuyên Môn Và Độ Tuổi
- Nhận Định Về Mức Độ Cần Thiết Sử Dụng Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Của Người Lao Động Nhập Cư Phân Theo Giới Tính
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
là nhóm lao động ở khu vực KTPNN. Trong quá trình hỗ trợ cung cấp dịch vụ thì NVCTXH phải đảm bảo quyền con người và là người thực hiện vai trò biện hộ, ngay cả khi NLĐNC khu vực KTPNN có hoặc chưa nhận thức được những quyền của họ trong việc tiếp cận các DVCTXH.
2.3.3. Tiếp cận dựa trên thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống được hình thành năm 1940 bởi nhà sinh vật học nổi tiếng Lugwig von Bertalanffy (1901 – 1972). Sau này lý thuyết này được các nhà khoa học khác nghiên cứu và phát triển như Hanson (1995), Mancoske (1981), Siporin (1980).
Lý thuyết này cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, gồm nhiều bộ phận, yếu tố liên quan và tác động qua lại lẫn nhau trong môi trường xã hội và được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phân của hệ thống lớn hơn. Do đó con ngươi là một bộ phận của xã hội, đồng thời cũng tạo nên từ các phần tử nhỏ hơn. Từ lĩnh vực sinh học, các nguyên tắc của lý thuyết này được chuyển sang việc giải quyết những vấn đề của các chuyên ngành khác, trong đó có các ngành thuộc khoa học xã hội, nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với xã hội [79].
Vận dụng lý thuyết hệ thống trong luận án
Lý thuyết hệ thống sử dụng trong CTXH như một công cụ trợ giúp NVCTXH khi họ phải sắp xếp, tổ chức những lượng thông tin lớn thu thập được để xác định mức độ nghiêm trọng của vấn đề và tìm cách can thiệp. Việc tổ chức thông tin thành hệ thống sẽ giúp NVCTXH nhìn nhận vấn đề sáng tỏ hơn. Trong khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ cá nhân không thể thiếu được lí thuyết hệ thống bởi vì NVCTXH cần chỉ ra thân chủ của mình đang thiếu và cần đến những hệ thống trợ giúp nào và tìm cách giúp đỡ để họ có thể tiếp cận và tham gia các hệ thống để nâng cao năng lực và giải quyết các vấn đề của NLĐNC khu vực KTPNN. Đó cũng là cái đích cuối cùng mà CTXH hướng tới.
Thuyết hệ thống sinh thái là một lý thuyết rất quan trọng trong nền tảng triết lý của ngành CTXH nó nói lên sự liên hệ giữa các hệ thống, các tổ chức nhóm và vai trò của thân chủ trong môi trường sống. Lý thuyết này dựa trên giả thiết rằng, mỗi thân chủ đều phụ thuộc vào môi trường và hoàn cảnh sống. Cả thân chủ và môi trường đều được xem là một thể thống nhất, mà trong đó các yếu tố liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ (Compton, 1989).
Lý thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra rằng, trong mỗi môi trường sinh thái, các hệ thống hoạt động vừa có tính chất riêng biệt và phức tạp, vừa có sự trao đổi liên kết chặt chẽ giữa chúng. Để hiểu biết về một yếu tố nào đó trong môi trường sống, chúng ta phải nghiên cứu cả hệ thống môi trường xung quanh của nó. Vì vậy, trong CTXH
bất cứ một việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân của một tổ chức nào đó đều có liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó.
Trong lý thuyết này, tất cả các vấn đề của con người phải được nhìn nhận một cách toàn diện trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác, chứ không chỉ xem xét các yếu tố tác động một cách đơn lẻ. Mọi người trong hoàn cảnh sống đều có những hành động và phản ứng ảnh hưởng lẫn nhau, và các hoạt động can thiệp hoặc giúp đỡ với NLĐNC khu vực KTPNN sẽ có ảnh hưởng đến những yếu tố xung quanh như thế nào. Lý thuyết Hệ thống sinh thái sẽ xem xét con người là một bộ phận của xã hội và chịu sự tác động của các hệ thống xã hội. Bất kỳ sự thay đổi nào trong hệ thống xã hội cũng tạo ra những ảnh hưởng đến hệ thống con nằm trong đó. Khi phân tích phân đi từ hệ thống từ cá nhân, gia đình, cộng đồng và hệ thống DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN. Từ đó có những can thiệp giúp đỡ phù hợp và hiệu quả đối với NLĐNC khu vực KTPNN.
Lý thuyết này cũng chỉ ra NLĐCN còn là một bộ phận của mối tương tác, phụ thuộc lẫn nhau giữa các hệ thống kinh tế - xã hội ở cả nơi xuất cư, nhập cư và toàn xã hội với tính cách là một hệ thống xã hội thống nhất [63]. Điều này cho thấy, cần phải xem xét việc tiếp cận DVCTXH của NLĐNC trong hệ thống cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng gồm đường giao thông, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường và sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận DVCTXH tại nơi đến.
Xã hội luôn tồn tại trong một hệ thống chỉnh thể, trong đó các tiểu hệ thống cá nhân, gia đình, cộng đồng, hệ thống chính sách, pháp luật, văn hóa, xã hội và các chương trình chính sách, dịch vụ. Để hệ thống luôn cân bằng sự ổn định thì tất cả tiểu hệ thống phải chấp hành đường lối, quan điểm, pháp luật của hệ thống. Các cơ sở và NVCTXH cung cấp dịch vụ thì phải bảo đảm nguyên tắc của hệ thống và cần dựa vào hệ thống chính sách, chương trình dịch vụ thể hiện rõ ở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ sở. Nếu các tiểu hệ thống không tuân thủ nguyên tắc của hệ thống sẽ dẫn đến dễ bị phá vỡ, và NVCTXH khó tìm kiếm nguồn lực để trợ giúp cho NLĐNC sử dụng hiệu quả DVCTXH.
Các dịch vụ CTXH cung cấp cho NLĐNC khu vực KTPNN là một hệ thống, trong đó bản thân NLĐNC là tiểu hệ thống, các tiểu hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là cộng đồng xã hội. Các tiểu hệ thống cần có sự liên kết ổn định theo thể chế, chính sách, chương trình, dịch vụ của mỗi quốc gia. NLĐNC khu vực KTPNN có nhiều vấn đề cần trợ giúp và có sự phụ thuộc, tác dộng qua lại giữa các thành viên trong cộng đồng. Nếu NLĐNC không được sử dụng DVCTXH thì sẽ ảnh hưởng đến
các thành viên khác trong gia đình và cộng đồng. Vì vậy, luận án cần chú ý đến mối tác động qua lại giữa con người với môi trường sinh thái để cung cấp đa dạng, toàn diện các dịch vụ. Đồng thời, luận án cũng cần chú ý sự phối hợp mang tính liên ngành trong việc cung cấp các DVCTXH cho NLĐNC.
Tùy thuộc vào từng vấn đề của thân chủ, họ có cần sử dụng hệ thống các dịch vụ trợ giúp đang tồn tại xung quanh họ có ảnh hưởng đến quá trình sử dụng dịch vụ cũng như gây ra sự xung đột với hệ thống khác khiến cho NLĐNC khó tiếp cận với hệ thống các dịch vụ liên quan. Nhiệm vụ của luận án xác định được các mâu thuẫn trong việc huy động, kết nối các nguồn lực hoặc chuyển gửi thân chủ đến các cơ sở cung cấp dịch vụ trong hệ thống nhằm cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu của từng thân chủ giúp họ tăng cường khả năng tìm kiếm hoặc tương tác vào các hệ thống chính sách, chương trình và dịch vụ cũng như góp ý vào sự thay đổi các chính sách, dịch vụ chưa phù hợp với NLĐNC để nâng cao hiệu quả sử dụng DVCTXH.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với người nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước
2.4.1. Đội ngũ nhân viên cung cấp dịch vụ công tác xã hội
Để thực hiện các hoạt động cung cấp DVCTXH thì nhân viên CTXH là những người được yêu cầu được trang bị một cách đầy đủ kiến thức, kỹ năng về CTXH, tâm lý học, xã hội học, cũng như những chuyên ngành cần thiết khác. Tham gia các khóa tập huấn, lớp bồi dưỡng kiến thức về CTXH chương trình do Bộ LĐTBXH ban hành và NVCTXH cần sử dụng các kỹ năng lắng nghe, quan sát, giao tiếp, tham vấn, tư vấn,... Họ là cầu nối giữa đối tượng với các nguồn lực hỗ trợ của xã hội và là người biết quan tâm chia sẻ động viên thân chủ vượt qua khó khăn để vươn lên hòa nhập với cộng đồng. NVCTXH còn là người giúp cho gia đình và cộng đồng hiểu rõ những nhu cầu và năng lực của NLĐNC, từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho họ tự tin phát huy khả năng của mình. Ngoài ra NVCTXH cần phải nắm rõ hệ thống các văn bản quy định chính sách, chương trình hỗ trợ cho NLĐNC, từ đó có thể cung cấp thông tin đầy đủ về các DVCTXH hỗ trợ cho họ giải quyết những khó khăn mà họ đang gặp phải.
Để cung ứng phù hợp các DVCTXH cho NLĐNC, lúc này vai trò của các NVCTXH là đánh giá thân chủ (cá nhân, nhóm NLĐNC) tại các xã/phường đang thiếu hụt những nhu cầu nào, nhu cầu nào là thiết yếu nhất đối với họ, và họ cần được đáp ứng ở mức độ nào, trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để NVCTXH có thể để cung cấp để họ giải quyết các vấn đề của mình.
Qua nghiên cứu lý luận cho thấy, các chỉ báo liên quan đến đội ngũ nhân viên cung cấp DVCTXH như: Hiểu biết về đặc điểm tâm lý, tâm tư nguyện vọng của
NLĐNC; phải được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chuyên ngành CTXH; Nắm vững về các chính sách, chương trình, dịch vụ liên quan đến NLĐNC. Bên cạnh đó chỉ báo về năng lực, công việc kiêm nhiệm cũng như các kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng đánh giá vấn đề, kỹ năng xử lý tình huống,… của NVCTXH đều ảnh hưởng đến việc kết nối, chuyển gửi và kết hợp tới các hội, ban ngành, đoàn thể ở địa phương trong việc triển khai, tổ chức cung cấp các DVCTXH cho NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN.
2.4.2. Thông tin truyền thông về dịch vụ công tác xã hội
Công tác thông tin truyền thông về dịch vụ là một trong những khó khăn lớn đối với việc tiếp cận DVCTXH đối với NLĐNC. Chỉ một bộ phận NLĐNC khu vực KTPNN tiếp nhận thông tin về pháp luật và qui định liên quan đến quyền và lợi ích của mình tại nơi làm việc. Ngoài nguồn thông tin này ra, nhiều NLĐNC khu vực KTPNN không biết tìm hiểu thông tin mình cần biết ở đâu. Bên cạnh đó, NLĐNC khu vực KTPNN thường sống khép kín, ít tham gia vào vào các sinh hoạt cộng đồng tại nơi đến, ngại giao tiếp với mọi người trong cộng đồng, khả năng nhận thức còn giới hạn, năng lực hành vi còn hạn chế nên cần được chăm sóc, hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ cần thiết nên các thông tin truyền thông về DVCTXH chưa đến được với họ.
Một trong những nguyên nhân về truyền thông dịch vụ chưa đến được với người dân là chưa gắn kết được giữa đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo về CTXH, người hành nghề CTXH chuyên nghiệp chưa có chỗ đứng và chưa được công nhận vị trí, vai trò trong xã hội theo đúng nghĩa. Bên cạnh đó, năng lực cung cấp dịch vụ cho cộng đồng chưa cao, NVCTXH chưa có cơ chế để hành nghề thực sự nên ảnh hưởng không nhỏ đến cung cấp DVCTXH cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng [53]. Thông tin đến với NLĐNC khu vực KTPNN còn thiếu và yếu sẽ làm giảm khả năng tiếp cận ASXH, DVCTXH của họ tại nơi đến. Kết quả báo cáo tóm tắt của Oxfam năm 2015 cũng cho thấy, thông tin về chính sách ASXH, dịch vụ chỉ mới cung cấp trên các kênh như báo chí, hệ thống phát thanh truyền hình, tuy nhiên chưa
chú ý tới các kênh thông tin, chất lượng thông tin và trách nhiệm của các chủ thể cung cấp thông tin và chưa có chương trình truyền thông đại chúng chính thức nào dành riêng cho họ [92]. Chính vì vậy, đa số NLĐNC không biết nơi nào có thể cung cấp thông tin tư vấn về Luật, chính sách, chương trình và dịch vụ cho họ. Sự loại trừ NLĐNC một cách không chính thức vào các chương trình hoạt động tại địa phương cũng như thông tin có ích đối với NLĐNC về các chính sách ASXH và dịch vụ tại nơi đến. Vì thế, NLĐNC khu vực KTPNN khó có cơ hội tiếp cận với các chương trình, chính sách, DVCTXH tại địa phương.
2.4.3. Nguồn lực hỗ trợ
Ở nước ta hiện nay đang có sự mất cân đối giữa nhu cầu về DVCTXH với năng lực thực hiện các DVCTXH tại các cơ sở. Mặc dù mỗi tỉnh thành trong cả nước đều có các trung tâm Bảo trợ xã hội thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ cho các đối tượng yếu thế, nhưng hầu hết các cơ sở này mới thực hiện chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng mà còn ít thực hiện cung cấp dịch vụ cho các đối tượng khác. Thực tế cho thấy, vẫn còn thiếu vắng các mô hình cung cấp DVCTXH dựa vào cộng đồng, hướng tới cộng đồng sử dụng dịch vụ phải trả một phần kinh phí, phần còn lại được hỗ trợ bởi nhà nước hoặc huy động nguồn lực từ cộng đồng [53].
Nguồn lực trong CTXH bao gồm nhân lực và tài chính. Phần nhân lực đã được đề cấp đến ở ý thứ 2 trong các yếu tố thuộc về nhân lực. Nguồn lực thuộc về tài chính bao gồm ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động của các xã/phường, còn các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài công lập là nguồn lực được tài trợ bởi các tổ chức phi chính phủ, đối tác hoặc mạnh thường quân. Ngoài nguồn lực chính từ ngân sách nhà nước hoặc cấp để duy trì hoạt động cùng với sự vận động kết nối các nguồn lực từ bên ngoài từ các mạnh thường quân, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng như mạng lưới xã hội của NLĐNC làm việc khu vực KTPNN. Xã/phường có khả năng vận động và kết nối các nguồn lực tốt thì mang lại lợi ích cho NLĐNC khu vực KTPNN làm tăng thêm nguồn tài chính chi cho hoạt động cung cấp DVCTXH.
Như vậy việc tìm nguồn lực chính thức và phi chính thức từ trong cộng đồng để góp phần phát triển mạng lưới cung cấp DVCTXH ngày càng hoàn thiện tại cộng đồng là một điều vô cùng cần thiết. Để làm được điều này, NVCTXH cần phải huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân tại cộng đồng cũng như các ban ngành, tổ chức, đoàn thể công lập và các tổ chức cung cấp dịch vụ ngoài công lập khác để đảm bảo việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của cộng đồng để hỗ trợ NLĐNC tại cộng đồng. Trong đó, NVCTXH là người đóng vai trò kết nối, vận động và điều phối các nguồn lực chính thức và phi chính thức một cách hiệu quả vào việc trợ giúp NLĐNC khu vực KTPNN tiếp cận thuận lợi các DVCTXH tại địa phương.
2.4.4. Đặc điểm của người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước
Qua các công trình nghiên cứu cho thấy, người lao động có trình độ đại học có xu hướng chọn TPHCM làm điểm đến bởi vì nơi đây được coi là khu trung tâm kinh tế, văn hóa ở cả nước, cung cấp cho NLĐNC nhiều cơ hội việc làm tốt hơn và mức lương cao hơn. Hiệu quả sử dụng dịch vụ CTXH của NLĐNC khu vực KTPNN chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, mức độ ảnh hưởng khác nhau và sẽ sẽ được làm rõ ở
phần chương 3. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra, đặc điểm của NLĐNC như (độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nhận thức, đặc điểm tâm lý, tính di động,…) có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiếp cận DVCTXH ở đô thị.
Đa phần NLĐNC khu vực KTPNN đều thuộc nhóm dân số trẻ và khi họ có trình độ học vấn cao thì khả năng tìm kiếm được việc làm ổn định và được ký kết hợp đồng lao động hơn so với NLĐNC có trình độ học vấn thấp. Số lượng NLĐNC khu vực KTPNN có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật tương đối thấp, chỉ có 15,7% có trình độ từ phổ thông trung học trở lên, có trên 90% không có bất kỳ chứng chỉ tay nghề nào nên họ gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận dịch vụ ở đô thị [8].
Bên cạnh đó, NLĐNC khu vực KTPNN nhận thức về các chương trình ASXH còn rất hạn chế. Họ không có thời gian đề tìm hiểu, nâng cao kiến thức về các chương trình dịch vụ CTXH mà họ phải để dành thời gian để làm việc và giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống, cho dù những dịch vụ này rất quan trọng đối với họ. Chỉ có khoảng 1/3 số NLĐNC từ nông thôn ra đô thị có nhận được sự trợ giúp, còn lại 2/3 số NLĐNC tự lo cho bản thân. Họ tự lo tìm kiếm việc làm, nhà ở, vốn kinh doanh, tự chăm sóc sức khỏe, tự học hỏi kinh nghiệm và kỹ năng sống,... để có thể tồn tại được trong môi trường mới [92].
Người lao động nhập cư khu vực KTPNN là một nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương tại khu đô thị, tuy nhiên họ được tiếp cận rất ít tới các dịch vụ nhất là các chính sách ASXH. Về việc làm, tỷ lệ thất nghiệp của NLĐNC cao tính chất công việc thiếu ổn định. NLĐNC ra thành phố làm rất nhiều nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao động phổ thông (làm thuê trong các công trường xây dựng, các cơ sở sản xuất, tái chế nhựa, may mặc, da giày,…). Phần lớn trong số họ làm việc trong các cơ sở kinh tế thuộc khu vực KTPNN nên tỷ lệ được ký hợp đồng lao động thấp, hoặc có hợp đồng lao động thì chủ sử dụng lao động cũng ít quan tâm đến trách nhiệm thực hiện BHXH, BHYT và các phúc lợi xã hội khác.
Do tính chất công việc không ổn định, thu nhập thấp NLĐNC khu vực KTPNN phải lo trả tiền nhà trọ và các khoản chi phí khác trong cuộc sống hàng ngày như cái ăn, cái mặc, học hành cho con đã rất khó khăn, thậm chí một số còn phải đi vay nóng khi gia đình có rủi ro; chưa nói đến khả năng tích lũy. Do vậy việc tham gia các loại hình bảo hiểm thật sự khó khăn đối với họ.
Mặt khác, NLĐNC khu vực này thường quay vòng, luẩn quẩn trong đói nghèo; hạn chế về năng lực, kiến thức và vật chất khiến cơ hội hòa nhập xã hội để phát triển không có nhiều. Một rào cản xuyên suốt trong việc hạn chế NLĐNC và gia đình họ tiếp cận dịch vụ công (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch vệ sinh) là quy định trong phân