Chính Sách Đảm Bảo Sự Chuyên Nghiệp Trong Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Giảm Nghèo:

- Quy định về tiến trình, các bước làm việc của nhân viên CTXH, tiêu chuẩn của nhân viên CTXH và cơ chế kiểm soát việc thực hiện của nhân viên CTXH trong làm việc với nhóm người nghèo.

- Phát triển cộng đồng: Nguyễn Thị Oanh (1997), Công tác xã hội đại cương, Ban xuất bản Đại học Mở bán công TP.HCM. “phát triển cộng đồng là một tiến trình làm chuyển biến động người nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lức thông qua việc giáo dục gây nhận thức về tinh thần, vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên sẵn có, tổ chức các hoạt động tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức và tiến tới tự lực phát triển”. Phát triển cộng đồng có đặc trưng: Tạo ra những điều kiện cơ bản cải thiện về kinh tế và xã hội cho cộng đồng; nhấn mạnh tầm quan trọng sự tham gia của quần chúng theo cơ chế dân chủ và tự nguyện; sự nổ lực của chính quyền nhằm hỗ trợ và định hướng cho các quá trình và phát triển là yếu tố quết định tính bền vững; biết định hướng các nhu cầu từ người dân, phát triển tính rự lực, nâng cao ý thức của người dân, tăng quyền lực cho cộng đồng; tăng cường sự hội nhập và tính bền vững và tuân thủ theo tiến trình từ thấp đến cao.

Tiến trình phát triển cộng đồng theo trình tự từ thấp đến cao gồm: Cộng đồng yếu kém, cộng đồng thức tỉnh, cộng đồng tăng cường năng lực và cộng đồng tự lực. Cụ thể.

- Chính quyền hỗ trợ và định hướng cho quá trình phát triển là yếu tố quyết định tính bền vững; biết định hướng các nhu cầu từ người dân; phát triển tính tự lực; nâng cao ý thức của người dân; tăng quyền lực cho cộng đồng; tăng cường sự hội nhập và tính bền vững và tuân thủ theo tiến trình từ thấp đến cao.

- Cộng đồng yếu kém là cộng đồng đang có vấn đề hay đang có nhu cầu nào đó cần thỏa mãn. Nhưng vấn đề đó chưa được nhận thức đầy đủ hoặc chỉ một vài người nào đó mà chưa phải cả cộng đồng. Trong khuôn khổ đề tài này, cộng đồng yếu kém được xem là cộng đồng nghèo (huyện nghèo, xã nghèo, ấp đặc biệt khó khăn theo tiêu chí của Nhà nước quy định trong mỗi thời kỳ).

- Cộng đồng thức tỉnh là việc cộng đồng nghèo nhận ra vấn đề của mình, biến nó thành nhu cầu thực sự cho sự thay đổi.

- Cộng đồng tăng năng lực là việc thành viên trong cộng đồng nghèo đang trong tiến trình tổ chức lại, được trao quyền, tăng cường khả năng, năng lực, được tham gia vào các hoạt động cũng như tham gia quyết định nên làm gì, làm thế nào để giải quyết vấn đề cộng đồng.

- Cộng đồng tự lực hay cộng đồng thoát nghèo là cộng đồng khi người dân đã đủ khả năng giải quyết vấn đề của mình không cần sự trợ giúp của tác viên cộng đồng (nhân viên CTXH) trong mọi trường hợp.

- Để giúp cho cộng đồng nghèo có tiến trình phát triển, nhân viên CTXH cùng tổ chức thực hiện với người dân các hoạt động: Tổ chức cộng đồng, giáo dục cộng đồng, tuyên truyền vận động trong cộng đồng, tổ chức các cuộc họp với người dân; Sử dụng kiến thức chuyên môn như là công cụ về xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, dự án GNBV của cộng đồng nghèo theo phương pháp có sự tham gia của người dân.

- Trong tiến trình đó, nhân viên CTXH đóng vai trò là người xúc tác, người biện hộ, người nghiên cứu, người huấn luyện và kể cả người lập kế hoạch. Do đó, đòi hỏi người tác viên phải được đào tạo để trang bị cho mình cả về đạo đức nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp, trong đó đạo đức nghề nghiệp (thái độ nghề nghiệp) là quan trọng nhất. Về thái độ đòi hỏi phải hòa đồng; trung thực; kiên trì, nhẫn nại; khiêm tốn, biết học hỏi người dân; khách quan, vô tư. Về kiến thức tối thiểu là hiểu biết về cộng đồng; kiến thức về phát triển tổ chức trên cơ sở lý luận về nhóm, năng động nhóm, lãnh đạo nhóm; kiến thức phối hợp liên ngành; kiến thức giải quyết vấn đề và tiến trình ra quyết định; kiến thức chung về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường; kiến thức về tập huấn và xây dựng các chương trình tập huấn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

- Để nhân viên CTXH thực hành phương pháp phát triển cộng đồng đối với cộng đồng nghèo, chính sách CTXH trong GNBV cần:

- Trong đào tạo nhân viên CTXH trở thành tác viên cộng đồng phải đảm bảo cả về đạo đức nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp và kỹ năng nghề nghiệp, trong đó đạo đức nghề nghiệp (thái độ nghề nghiệp) là quan trọng nhất.

Chính sách Công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 7

- Chính sách có quy định và xác lập pháp lý về quyền làm tác viên phát triển cộng đồng của nhân viên CTXH; xác định vai trò, vị trí của nhân viên CTXH, tiêu chuẩn của nhân viên CTXH.

- Quy định về tiến trình, các bước làm việc trong các hoạt động phát triển cộng đồng; quy định về xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, dự án GNBV của cộng đồng nghèo theo phương pháp có sự tham gia của người dân và cơ chế kiểm soát việc thực hiện của tác viên phát triển cộng đồng.

1.5.3. Chính sách đảm bảo sự chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với giảm nghèo:

Theo Hà Thị Thư (2016): “Sự chuyên nghiệp là nhằm tạo ra sự hoàn chỉnh, chất lượng, hiệu quả và tin cậy, thân thiện trong việc cung cấp các hoạt động đem lại sự thỏa mãn cao nhất cho các bên tham gia”. Còn “DV CTXH cho các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung cấp các hoạt động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội”. Đồng thời ta biết rằng, DV CTXH đối với vấn đề GNBV được tổng hợp theo hai hình thức tiếp cận: Thứ nhất, là hình thức cung cấp DV trực tiếp hỗ trợ người nghèo, gia đình nghèo, nhóm người nghèo và cộng đồng nghèo; thứ hai, là hình thức tập trung vào việc đưa ra các chính sách, chương trình GNBV.

Điều đó cho thấy, sự chuyên nghiệp trong DV CTXH đối với giảm nghèo thể hiện ở chỗ: Con người – tức là nhân viên CTXH chuyên nghiệp, môi trường chuyên nghiệp và thực hiện nội dung DV CTXH chuyên nghiệp.

1.5.4. Chính sách đảm bảo con người chuyên nghiệp và môi trường chuyên nghiệp

- Nhân viên CTXH chuyên nghiệp trong cung cấp DV CTXH đối với giảm nghèo thể hiện ở các khía cạnh: Tuân thủ nguyên tắc nghề nghiệp và nguyên tác hành động của nhân viên như chấp nhận đối tượng nghèo, đưa đối tượng nghèo tham gia vào các bước trong giải quyết vấn đề, tôn trọng quyền tự quyết, cá biệt hóa trong cung cấp dịch vụ, giữ bí mật thông tin của người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo. Thực hiện quy điều đạo đức như tôn trọng phẩm giá, tin vào năng lực, không phân biệt hoàn cảnh người nghèo. Thường xuyên trao dồi kiến thức chuyên môn nhất là vấn đề hành vi con người, pháp luật, kinh tế, CTXH, chính sách GNBV. Tác phong làm việc cũng như tinh thần trách nhiệm, đúng giờ, ngăn nắp, ứng xử phải biết tôn trọng, lắng nghe. Có ý thức kỷ luật như chấp hành đúng nội quy, quy định nghề nghiệp, quy định của tổ chức, người điều hành nếu làm việc tại gia đình, cộng đồng và của cơ sở cung cấp DV nếu làm việc trong cơ sở DV, thực hiện đúng quy trình giải quyết công việc với mục đích đem lại hiểu quả cao nhất trong trợ giúp đối tượng nghèo.

- Môi trường chuyên nghiệp cả trong môi trường vật lý và tâm lý. Về môi trường vật lý cần có cơ sở vật chất, văn phòng, thiết bị, máy móc, dụng cụ,… sao cho người nghèo dễ tiếp cận; cơ quan cung cấp DV có quy trình làm việc, tài liệu hướng dẫn, bảng mô tả công việc, phân công nhiệm vụ rõ ràng và đẩy đủ; chế độ lương, thưởng, phụ cấp rõ ràng và đảm bảo bù đắp sự vất vả, phức tạp do tính chất của công việc. Về sự chuyên nghiệp trong môi trường tâm lý thể hiện ở khía cạnh nhân viên CTXH làm việc trên tinh thần nhóm, tôn trọng và tương trợ nhau; cán bộ quản lý quan tâm, động viên và chú ý cải thiện điều kiện tốt nhất có thể để khuyến khích nhân viên làm việc tích cực, thực hiện đẩy đủ nguyên tắc nghề nghiệp.

Như vậy, để đảm bảo con người chuyên nghiệp, môi trường chuyên nghiệp trong DV CTXH đối với giảm nghèo, chính sách CTXH trong GNBV cần quy định rõ ràng về:

- Tiêu chuẩn nhân viên làm việc trong lĩnh vực cung cấp DV này và đó là điều kiện bắt buộc phải có trước khi hành nghề; người được hành nghề ngoài có chuyên môn về CTXH có trình độ cao đẳng trở lên còn phải có bằng hành nghề được tổ chức có thẩm quyền chuyên môn cấp dự trên kết quả thi hành nghề.

- Điều kiện, tiêu chuẩn trong việc xây dựng trụ sở, tổ chức hoạt động, nội quy, quy chế làm việc đối với cơ sở (Trung tâm) cung cấp DV liên quan đến giảm nghèo; cơ chế quản lý, giám sát việc hành nghề đối với nhân viên CTXH làm việc, trợ giúp tại gia đình, cộng đồng nghèo.

- Giá DV CTXH trong trợ giúp rõ ràng theo quy mô, nội dung và diện đối tượng (người nghèo, gia đình nghèo, nhóm nghèo, cộng đồng nghèo); trách nhiệm chi trả của đối tượng thụ hưởng, của Nhà nước, phương thức chi trả cho người, cơ sở cung cấp DV.

1.5.5. Chính sách đảm bảo thực hiện nội dung dịch vụ công tác xã hội đối với đối tượng nghèo chuyên nghiệp:

Cả lý thuyết và thực tiễn cho thấy, có nhiều nội dung DV CTXH đối với đối tượng nghèo, gồm: Truyền thông về GNBV, giáo dục, dạy nghề - tạo việc làm, tham vấn, kết nối nguồn lực, cung cấp dịch vụ, biện hộ, tham gia hoàn thiện chính sách GNBV,… Mỗi nội dung hoạt động của DV có mục tiêu riêng và được áp dụng thực hiện trên cơ sở nhu cầu thực tế của đối tượng giảm nghèo nhằm góp phần thực hiện mục tiêu tổng thể của chính sách giảm nghèo là nhằm giúp cho: Đối với người nghèo tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các dịch vụ xã hội để có điều kiện cải thiện sinh kế, phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống; tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản để có đủ điều kiện thoát nghèo một cách bền vững. Đối với vùng nghèo là tập trung nâng cao năng lực để có điều kiện vươn lên nhằm thu hẹp khoảng cách về thu nhập và mức sống giữa các vùng, miền, các dân tộc.

Tính chuyên nghiệp trong thực hiện mỗi nội dung DV CTXH với đối tượng nghèo thể hiện ở việc thực hiện một cách hoàn cảnh ở các khâu công

việc, tính logic, hợp lý giữa các khâu nhằm đảm bảo cung cấp DV một cách có chất lượng, hiệu quả và tin cậy. Kết quả đem lại bảo đảm sự thỏa mãn cao nhất cho kể cả người nghèo, nhân viên CTXH và các thành phần có liên quan tham gia thực hiện trong hoạt động DV CTXH. Điều đó đòi hỏi, trước khi triển khai thực hiện một hoạt động DV CTXH cụ thể cần có một kế hoạch cụ thể, rõ ràng, trong đó xác định sự cần thiết phải chọn hoạt động DV trong một trường hợp hỗ trợ cụ thể; cách thức tổ chức thực hiện; cơ sở pháp lý để thực hiện; xác định nó là cái gì; mục tiêu để làm gì; phải thực hiện những nội dung nào và hình thức thực hiện từng nội dung.

Như vậy, để đảm bảo thực hiện chuyên nghiệp DV CTXH đối với giảm nghèo, chính sách CTXH trong GNBV cần quy định rõ ràng về:

Xác định rõ vị trí, vai trò của nhân viên CTXH; quy định về quy trình, các bước căn bản trong cung cấp một DV CTXH với giảm nghèo; mẫu hóa từng công đoạn trong hoạt động một DV CTXH;

Yêu cầu đạt được, tiêu chí và cách thức đánh giá, giám sát chất lượng, hiệu quả và sự thỏa mãn của các bên tham gia trong từng hoạt động DV CTXH, cụ thể là: truyền thông về GNBV, giáo dục, dạy nghề - tạo việc làm, tham vấn, kết nối nguồn lực, cung cấp dịch vụ, biện hộ, tham gia hoàn thiện chính sách GNBV.

1.5.6. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững

- Có nhiều yếu tố tác động đến chính sách CTXH trong GNBV như: Nhận thức của xã hội về CTXH nói chung và CTXH đối với người nghèo nói riêng; sự phát triển và chuyên nghiệp của nghề CTXH; khả năng kinh tế, trình độ công nghệ; tình hình chính trị của quốc gia và quốc tế.

- Thứ nhất, nhận thức của xã hội về CTXH nói chung và CTXH đối với người nghèo nói riêng là yếu tố tác động không nhỏ đến thực hiện chính sách CTXH trong GNBV. Có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, mục đích, giá trị, vai trò

và tính hiệu quả của CTXH thì cán bộ, công chức, những người có chức năng

mới có kế hoạch, định hướng và đúng luật pháp hóa tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành, phát triển của nghề CTXH nói chung, CTXH đối với người nghèo, chính sách CTXH trong GNBV nói riêng. Sự phát triển và hiệu lực, hiệu quả của chính sách CTXH trong GNBV phụ thuộc vào trình độ và nhận thức của những người hoạch định chính sách. Đối với quần chúng nhân dân có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí và sự cần thiết cho an sinh xã hội, vì sự tiến bộ và CBXH mới có sự đồng tình, ủng hộ cho sự hình thành và phát triển của lĩnh vực CTXH trong giảm nghèo là điều kiện không thể thiếu trong việc hoạch định và thực hiện chính sách CTXH trong GNBV. Hơn thế nữa, chính sách CTXH trong GNBV nhằm hướng tới phục vụ đối tượng giảm nghèo, nên chỉ khi nào người nghèo, hộ nghèo, cộng đồng nghèo thấy được vị trí, vai trò và tác dụng đầy đủ của nó thì chính sách CTXH trong GNBV mới có điều kiện đi vào thực tiễn đời sống.

- Thứ hai, sự phát triển và chuyên nghiệp của nghề CTXH: Chính sách CTXH trong GNBV là một chính sách CTXH về một lĩnh vực chuyên sâu của nghề CTXH. Sự hình thành và phát triển CTXH trong GNBV phụ thuộc vào sự hình thành và phát triển của nghề CTXH. Phải nói rằng sự phát triển của nghề CTXH đến mức nào thì trên cơ sở đó, lĩnh vực CTXH đối với giảm nghèo mới có điều kiện triển khai thực hiện cả về hành lang pháp lý, nhận thức xã hội, đội ngũ làm CTXH viên… Hơn thế nào, mức độ chuyên nghiệp tức là sự hoàn chỉnh, chất lượng, hiệu quả và tin cậy, thân thiện trong việc cung cấp các hoạt động của CTXH là điều kiện không thể thiếu để thực hiện chuyên nghiệp trong DV CTXH đối với giảm nghèo.

- Thứ ba, khả năng kinh tế, trình độ công nghệ: Đây là nói đến khả năng ngân sách chi cho việc hình thành, phát triển và hoạt động của CTXH trong các lĩnh vực nói chung và đối với giảm nghèo nói riêng; sự phát triển công nghệ, khả năng tiếp cận và áp dụng trình độ công nghệ vào trong các lĩnh vực hoạt động xã hội nói chung và CTXH nói riêng. Thực tế cho thấy kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì các vấn đề xã hội, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu

nghèo càng lớn. Chính vì thế đặt ra nhu cầu cần giải quyết các vấn đề xã hội và giảm nghèo. Mặt khác, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và CBXH và với điều kiện kinh tế có thể mới có đủ ngân sách chi cho các hoạt động xã hội, cho CTXH đối với giảm nghèo. Chính vì thế mà việc hoạch định chính sách CTXH trong GNBV phải trên cơ sở chính sách an sinh xã hội và trong mối tương quan với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Sở dĩ trình độ công nghệ có tác động không nhỏ đến chính sách CTXH trong GNBV vì công nghệ trong thời đại ngày nay là công cụ, phương tiện quan trọng để chuyển tải, thực thi, quản lý thực hiện chính sách.

- Thứ tư, tình hình chính trị của quốc gia và quốc tế: Tình hình chính trị là nói đến đường lối chính trị, thể chế chính trị và tính ổn định chính trị của quốc gia hay rộng hơn là quốc tế. Mỗi quốc gia có một đường lối và thể chế chính trị riêng nó định hướng cho sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của quốc gia đó. Việc định hướng về giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có GNBV, CBXH nó liên quan trực tiếp đến chính sách CTXH trong GNBV. Chính sách CTXH trong GNBV không thể năm ngoài và phải bị chi phối bởi đường lối đó. CTXH nói chung và CTXH trong GNBV nói riêng chỉ được phát triển trong môi trường hành chính thuận lợi, mà môi trường hành chính được định hình từ thể chế chính trị. Sự ổng định chính trị là cơ sở để ổn định xã hội và do đó, nó là mảnh đất màu mỡ để có điều kiện giải quyết tốt các vấn đề xã hội, để hoạch định và thực hiện chính sách CTXH trong GNBV.

Tiểu kết Chương 1

- Chính sách CTXH trong GNBV là sự thể chế hóa, cụ thể hóa các giải pháp của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển CTXH thành một NCN, đảm bảo cho nhân viên CTXH triển khai các cách tiếp cận, phương pháp của nghề CTXH và sự chuyên nghiệp DV CTXH đối với người nghèo theo quan điểm, đường lối của Đảng trong thực hiện chính sách GNBV, nhằm góp phần hướng tới công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện.

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 13/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí