lớp 1, bệnh hiểm nghèo cần có bảo hiểm y tế hay mã số hộ nghèo,… và nguồn thông tin chính mà họ thường tiếp cận đó chính là chủ nhà trọ [103]. Bên cạnh đó, họ quan tâm tới việc làm, thu nhập, bảo hiểm, thai sản, hợp đồng lao động hơn là tìm hiểu nội dung, thủ tục và quy trình các chính sách và chương trình về ASXH [1]; [133].
Người lao động nhập cư tại khu vực KTPNN gặp rất nhiều khó khăn trong việc giáo dục con cái, tìm kiếm việc làm, khám chữa bệnh, tìm kiếm nguồn lực, tiếp cận thông tin,… Do đó, NLĐNC tại khu vực này là một nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương tại khu đô thị, tuy nhiên họ được tiếp cận rất ít tới các chương trình, chính sách ASXH. Hệ thống đăng ký hộ khẩu đang hạn chế NLĐNC tiếp cận dịch vụ xã hội tại nơi họ đến [43]; [20]; [158].
NLĐNC khu vực KTPNN thường thiếu thốn nguồn lực tài chính và thời gian dẫn đến việc kiến thức về các chính sách ASXH của họ có phần hạn chế. Họ dành phần lớn thời gian để làm việc và giải quyết những vấn đề khó khăn trước mắt mà họ gặp phải vì thế họ không còn thời gian để tìm hiểu những thông tin về DVCTXH hay chính sách ASXH có liên quan đến lợi ích của họ và có tâm lý thờ ơ với các hoạt động tại cộng đồng nơi họ đang tạm trú dẫn đến việc thụ động trong việc tìm kiếm thông tin hay các dịch vụ hỗ trợ nên khó tiếp cận với các thông tin về DVCTXH. Truyền thông đại chúng là một lực lượng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong sự phát triển của dư luận và đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành và thay đổi ý kiến công chúng [146]; [168]. Đa phần, NLĐNC khu vực KTPNN tiếp cận nguồn thông tin hạn hẹp là qua chủ nhà trọ, bạn bè và mạng lưới người thân.
Nhìn chung, những hộ gia đình NLĐNC có điều kiện và hoàn cảnh sống tương đối khó khăn nên họ thường chọn những nơi có cơ sở hạ tầng đô thị yếu kém, ô nhiễm nặng nề… để sống. Để giảm bớt chi phí chi tiêu hàng tháng họ cùng chung nhau thuê phòng trọ để ở. Chính vì vậy, mật độ người cùng chung sống trong một mái nhà rất cao, đây là một hiện tượng rất phổ biến ở những quận huyện tập trung đông NLĐNC như: Quận 12, Bình Tân, Gò Vấp, Nhà Bè,… Tình trạng mua bán, sang nhượng đất đai, nhà cửa chủ yếu bằng giấy tay ở những nơi dân cư sống tập trung khiến cho tình hình trật tự xã hội khó kiểm soát [38]; [116].
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, phần lớn NLĐNC khu vực KTPNN thường không định cư lâu dài tại nơi cư trú mới và trên hết vẫn giữ mối quan hệ gắn kết với quê hương. Vì vậy, họ thường không quan tâm nhiều về hộ khẩu/sổ tạm trú, chỉ khi nào gia đình có vấn đề gì liên quan thì họ mới làm. Việc đăng ký tạm trú, tạm vắng đều phó thác cho các chủ nhà trọ tự làm như một thủ tục hành chính hơn là để tiếp cận dịch vụ xã hội. Việc phó thác đăng ký này dẫn đến việc họ không phân biệt được tình
trạng đăng ký của mình là tạm trú (KT3) hay lưu trú (KT4) và không tiếp cận được các chính sách về an sinh xã hội tại địa phương [1]; [128]; [103].
Vai trò của mạng lưới xã hội có tác động rất mạnh đến NLĐNC khu vực KTPNN trong việc tiếp cận về dịch vụ xã hội. Các mạng lưới xã hội của NLĐNC (đồng hương, bạn bè, người thân) đã tạo ra nguồn vốn xã hội, không chỉ tiền bạc, của cải, mà còn là thông tin, kiến thức, kinh nghiệm, và những hỗ trợ cần thiết kịp thời (cả về vật chất lẫn tinh thần) cho những người mới di cư. Nó giúp giảm chi phí (kinh tế, tâm lý) phải trả cho quá trình di cư, và tăng vận hội thành công [1]; [4]; [62]; [80]; [112]; [98]. Mạng lưới xã hội của người di cư là chỗ dựa chính trong cuộc sống hàng ngày của họ, là thiết chế quan trọng thay thế cho sự thiếu hụt về bảo trợ xã hội bên ngoài.
Bên cạnh đó, NLĐNC khu vực này gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các DVXH do không được đăng ký cư trú. Họ là những người sống cùng một địa bàn dân cư của cộng đồng đô thị nhưng không có quyền như người sở tại, không đến được với các DVXH, kể cả chương trình giảm nghèo. Họ thường sống cách biệt với cộng đồng địa phương nên rất ít, hầu như không tiếp cận được với các DVXH của Chính phủ và các tổ chức xã hội và khi tiếp cận được dịch vụ thì là dịch vụ với chất lượng kém, hoặc chi phí dịch vụ cao hơn chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nước, điện,… Cuộc sống của họ không ổn định do thiếu các nguồn lực và quan hệ xã hội cần thiết [4]; [81]; [66].
Như vậy, qua phân tích ở trên cho thấy NLĐNC khu vực KTPNN thường có những đặc điểm sau:
- Về giới tính, độ tuổi: Độ tuổi có xu hướng trẻ hóa, độ tuổi từ 15 – 39 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất và số lượng nữ giới di cư nhiều hơn nam giới.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nghiên Cứu Về Khả Năng Tiếp Cận Chính Sách An Sinh Xã Hội Của Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Các Nghiên Cứu Về Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Lý Luận Về Người Lao Động Nhập Cư Làm Việc Ở Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Các Loại Hình Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước
- Khái Quát Về Đặc Điểm Kinh Tế, Chính Trị, Xã Hội Và Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
- Điều kiện nhà ở, làm việc và tính chất công việc: Đa phần NLĐNC có điều kiện kinh tế khó khăn họ thường chọn nơi trọ có giá cho thuê thấp nhưng điều kện không đảm bảo. NLĐNC thường làm việc trong khu vực KTPNN chiếm tỷ lệ cao, không được ký hợp đồng lao động và không được tham gia vào BHXH, bảo hiểm y tế bắt buộc. Tính chất công việc nặng nhọc, thu nhập thấp và và không ổn định.
- Trình độ chuyên môn: Tùy thuộc vào từng công việc của NLĐNC khu vực KTPNN, đối với NLĐNC làm nghề tự do chủ yếu có trình độ thấp, thường làm các công việc giản đơn, không đòi hỏi tay nghề. Bên cạnh đó họ ít quan tâm đến những khía cạnh an toàn và vệ sinh lao động cho bản thân, chỉ quan tâm có việc làm bảo đảm thu nhập cho cá nhân và tích lũy cho gia đình.
- Dịch vụ xã hội cơ bản: NLĐNC khu vực KTPNN là nhóm đối tượng yếu thế và dễ bị tổn thương. Họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận DVXH cơ bản tại nơi
đến như: Không đủ điều kiện để được học tại các trường công lập do sự quá tải cơ sở hạ tầng, y tế, phải trả tiền điện, nướcc giá cao…
- Mạng lưới xã hội của NLĐNC chủ yếu là (đồng hương, bạn bè, người thân), họ ít tham gia vào các công việc của cộng đồng tại nơi đến nên không nắm bắt được thông tin về các chính sách ASXH, đặc biệt là thông tin về DVCTXH và gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tại nơi đến do không được đăng ký cư trú.
2.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước
2.2.1. Nhân viên công tác xã hội
Nhân viên CTXH là người được đào tạo và trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH, họ có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với các vấn đề trong cuộc sống; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết; thúc đẩy sự tương tác giữa cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh hưởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn [72, tr85].
Như vậy, nhân viên công tác xã hội là những người hoạt động trong nhiều lĩnh vực, được đào tạo chính quy và cả bán chuyên nghiệp, được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong CTXH để trợ giúp NLĐNC khu vực KTPNN giải quyết các vấn đề của họ nhằm nâng cao khả năng tự giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Trong hoạt động cung cấp dịch vụ nhân viên CTXH thực hiện các nhiệm vụ:
- Trợ giúp cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng giải quyết các vấn đề khó khăn;
- Kết nối thân chủ đến các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội;
- Thúc đẩy và cung cấp các dịch vụ trợ giúp và nguồn lực đáp ứng nhu cầu của đối tượng sử dụng dịch vụ.
- Tham gia vào phản biện xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội đối với NLĐNC làm việc trong khu vực KTPNN.
2.2.2. Dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập khu vực kinh tế phi nhà nước
2.2.2.1. Dịch vụ, dịch vụ xã hội
Hiện nay khái niệm dịch vụ được hiểu theo nhiều cách khác nhau và gắn với quá trình phát triển xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là loại hình công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công [131].
Trong kinh tế học dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất [131]. Theo quan điểm kinh tế học, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ,…và mang lại lợi nhuận.
Dịch vụ theo Philip Kotler (2006) là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất [153].
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012), cho rằng dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại dưới hình thái vô hình nhằm thỏa mãn các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người [trích theo 78;18].
Dịch vụ xã hội là các dịch vụ nhằm trợ giúp, thúc đẩy, hay phục hồi các chức năng của cá nhân hay gia đình, cung cấp những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển xã hội hóa của họ. Các DVXH có thể do cá nhân hay cơ quan tổ chức cung cấp, nó không chỉ có chức năng phục vụ cho cá nhân, gia đình mà cho cả nhóm xã hội, tham gia vào giải quyết các vấn đề, đáp ứng nhu cầu của xã hội. DVXH gắn liền với nhiệm vụ chức năng là phục vụ xã hội, thỏa mãn nhu cầu của người dân trong cộng đồng xã hội (Alfred Kahn,1973) [trích theo 78; tr18].
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), dịch vụ xã hội là các hoạt động cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội [23].
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012) cho rằng DVXH là những dịch vụ đáp ứng nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò nhằm đảm bảo hạnh phúc, phúc lợi, công bằng xã hội và đề cao tính nhân văn của mỗi con người. DVXH là hoạt động mang bản chất kinh tế, xã hội do Nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng lĩnh vực dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ; y tế, văn hóa, thông tin,... và các trợ giúp xã hội khác [54]. DVXH có đặc điểm sau:
- Là loại hình dịch vụ nhằm mục tiêu để phát triển xã hội và có tính chất xã hội. Dịch vụ xã hội tồn tại nhằm đảm bảo các giá trị chuẩn mực xã hội, hỗ trợ cho các người dân trong xã hội phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro.
- Do cơ quan công lập hoặc ngoài công lập thực hiện.
- Luôn được điều tiết bởi các giá trị đạo đức, văn hóa, nhân sinh và trách nhiệm xã hội của Nhà nước, doanh nghiệp hoặc tư nhân.
- Mọi người dân đều có quyền được thụ hưởng dịch vụ không tính việc đóng thuế bao nhiêu.
- Là dịch vụ thiết yếu đối với mọi người dân trong xã hội.
- Hiện nay, dựa vào tính chất dịch vụ và chủ thể cung cấp dịch vụ người ta đưa ra nhiều cách phân loại dịch vụ xã hội như: Dịch vụ xã hội cơ bản và dịch vụ xã hội nâng cao; dịch vụ xã hội công và dịch vụ xã hội tư; dịch vụ xã hội có thu tiền và dịch vụ xã hội không thu tiền,... [trích theo 78].
Tác giả Trương Nguyễn Bảo Trân (2016), DVXH là trợ giúp, phục hồi chức năng cá nhân, đảm bảo phúc lợi xã hội hoặc đảm bảo điều kiện phát triển cho nhóm đối tượng cá nhân, gia đình và được cung cấp bởi các cơ quan nhà nước hoặc tư nhân ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, việc làm…[128; tr 21].
2.2.2.2. Dịch vụ công tác xã hội
Công tác xã hội là một nghề mới phát triển ở Việt Nam nên các thuật ngữ DVCTXH, mạng lưới cung cấp DVCTXH chưa được đề cập đến nhiều. Song, trong những năm gần đây, Chính phủ Ban hành Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010- 2020 với mục tiêu: “Phát triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về nghề CTXH; xây dựng một đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển mạng lưới hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến” đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm đề cập đến.
Theo tác giả Nguyễn Hải Hữu (2011), trong bài viết “Phát triển mạng lưới dịch vụ CTXH và NVCTXH” đã đề cập: “Các thuật ngữ về DVXH, cung cấp dịch vụ xã hội đã quen thuộc với chúng ta. Ví dụ, như người bị ốm đau bệnh tật thì cần được chữa trị và họ là người phải mua dịch vụ, từ đó xuất hiện nhu cầu đào tạo người chữa bệnh là y tá, y sỹ, bác sỹ. Tương tự như vậy, con người sẽ có nhu cầu hiểu biết về xã hội, từ đó xuất hiện nhu cầu đào tạo giáo viên cho các cấp học, bậc học và giáo viên sẽ là người cung cấp dịch vụ dạy học” [66]. Như vậy, khi đề cập tới DVCTXH, cung cấp dịch vụ cần có hai yếu tố cấu thành là những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ và những người cung cấp dịch vụ được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về CTXH.
Dịch vụ CTXH có thể được coi là một loại hình DVXH được cung cấp bởi NVCTXH. Việc cung cấp DVCTXH không thể tách rời với các dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ truyền thông… Như vậy, trong quá trình thực hiện DVCTXH đòi hỏi NVCTXH phải có sự kết nối chặt chẽ với các DVXH khác [118; tr195].
Dịch vụ CTXH là những dịch vụ hỗ trợ, can thiệp với các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội nhằm giúp các đối tượng giải quyết những vấn đề của mình đảm bảo cuộc sống và môi trường phù hợp, đáp ứng lợi ích tốt nhất của thân chủ [73; tr187].
Trong khi đó, tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2014), “DVCTXH cũng là dịch vụ xã hội, tuy nhiên nó hướng nhiều tới các hoạt động hay dịch vụ TGXH cho những người có vấn đề xã hội, đặc biệt là nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn như người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi/ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, nạn nhân bị bạo lực gia đình, nạn nhân của buôn bán người, người vô gia cư, người sử dụng chất gây nghiện, người gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần, người nghèo...” [78; tr19].
Như vậy, dịch vụ CTXH cũng là một dạng dịch vụ xã hội, thông qua các hoạt động hỗ trợ, can thiệp với cá nhân, gia đình, nhóm và xã hội bởi nhân viên (NVCTXH hoặc là nhân viên) nhằm cung cấp các dịch vụ như hỗ trợ thông tin về nhà ở; việc làm; tâm lý; y tế, giáo dục; tiếp cận thông tin về dịch vụ,… DVCTXH nhấn mạnh đến yếu tố chuyên nghiệp của NVCTXH trong việc cung cấp các dịch vụ trợ giúp xã hội cho nhóm người có vấn đề xã hội, đặc biệt là những người yếu thế theo tiến trình CTXH cá nhân, gia đình CTXH nhóm hay cộng đồng và hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người.
2.2.2.3. Khái niệm dịch vụ và mô hình công tác xã hội đối với người lao động nhập cư
* Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư
Ở Việt Nam, hộ khẩu có liên quan mật thiết đến vấn đề di cư, vì nó kiểm soát và giám sát các thay đổi trong vấn đề cư trú của người dân bằng cách phân chia họ thành các dạng cư trú khác nhau mà mỗi dạng lại có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Chỉ những người có đăng ký là cư dân thường trú tại nơi họ đang sinh sống mới được thụ hưởng toàn bộ các dịch vụ của Chính phủ, những đối tượng còn lại phải trả tiền để có những dịch vụ đó hoặc không được thụ hưởng các dịch vụ này [28].
Khi đề cập đến khái niệm dịch vụ CTXH đối với các nhóm đối tượng yếu thế, tác giả Hà Thị Thư (2016), cho rằng: Dịch vụ CTXH cho các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung cấp các hoạt động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm đảm bảo các giá trị và chuẩn mực xã hội [118; tr 195].
Theo tác giả Trương Nguyễn Bảo Trân (2016), cho rằng: Dịch vụ CTXH đối với NLĐNC là những hoạt động nhằm cung cấp bởi NVCTXH với mục đích hướng đến việc cải thiện các vấn đề, nhu cầu mà cá nhân NLĐNC, gia đình và cộng đồng, tăng cường chức năng xã hội và khả năng tự lực và giảm thiểu các khó khăn và kết nối nguồn lực, vận động chính sách nhằm hướng tới việc hòa nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội [128, tr22].
Dịch vụ CTXH là những hoạt động được thực hiện bởi những NVCTXH được đào tạo, thông qua sử dụng những kiến thức, kỹ năng, phương pháp CTXH chuyên nghiệp, nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực thực hiện chức năng xã hội; đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần bảo đảm ASXH cho con người [67, tr54].
Qua việc phân tích các khái niệm về DVCTXH cho thấy: Dịch vụ CTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN là NVCTXH tìm kiếm, huy động và kết nối các nguồn lực, giới thiệu dịch vụ, phát huy tiềm năng, nội lực và ngoại lực trong xã hội được cung cấp bởi các cơ sở cung cấp DVCTXH công lập và ngoài công lập nhằm hỗ trợ cho NLĐNC khu vực KTPNN giải quyết vấn đề của mình. Đồng thời, NVCTXH kết hợp với các ban, ngành trong việc đề xuất và khuyến nghị điều chỉnh một số chính sách, quy định nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực và phát huy những tác động tích cực do NLĐNC khu vực KTPNN mang lại. DVCTXH có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo điều kiện, tiền đề thuận lợi cho các cá nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng có vấn đề có sự trợ giúp cần thiết để vượt quan những khó khăn và vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Tóm lại, DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN là những dịch vụ hỗ trợ, can thiệp của các nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp ở các cơ sở cung cấp DVCTXH đối với các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng nhằm giúp NLĐNC khu vực KTPNN giải quyết những vấn đề của họ đảm bảo cuộc sống và môi trường phù hợp, đáp ứng lợi ích tốt nhất và hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐNC khu vực KTPNN tại nơi đến.
Hay nói cách khác dịch vụ công tác xã hội đối với NLĐNC khu vực KTPNN là các dịch vụ hỗ trợ thông tin về nhà ở an toàn; tư vấn, tham vấn, hỗ trợ học nghề, việc làm; hỗ trợ tiếp cận giáo dục công lập; hỗ trợ kết nối, chuyển gửi được các nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp cung cấp cho người lao động nhập cư khu vực KTPNN và gia đình họ để giải quyết các vấn đề và giúp họ ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống và hòa nhập cộng đồng nơi đến hiệu quả.
* Mô hình dịch vụ công tác xã hội có đặc điểm sau:
- Mô hình cung cấp DVCTXH: Hiện nay ở Việt Nam mô hình cung cấp DVCTXH là các trung tâm CTXH, là mô hình này đang khuyến khích phát triển ở các tỉnh thành/ phố. Một số trung tâm đã bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ nhằm hỗ trợ cho các cá nhân, gia đình, cộng đồng nâng cao chức năng xã hội, góp phần đảm bảo an sinh và công bằng xã hội [78].
- Đối tượng thụ hưởng: Mô hình cung cấp dịch vụ CTXH thường là những đối tượng yếu thế như trẻ em; người khuyết tật; người cao tuổi; người tâm thần; nạn nhân bị bạo hành gia đình; người có HIV/AIDS; trong đó có NLĐNC khu vực KTPNN và thành viên gia đình họ, và mọi người dân đều có quyền thụ hưởng dịch vụ và không bị phân biệt, đối xử. Các dịch vụ cung cấp hưởng tới nhằm phòng ngừa, hỗ trợ, phục hồi hay phát triển.
- Mục đích mô hình dịch vụ CTXH nhằm mục tiêu phát triển xã hội, hỗ trợ cho các thành viên trong xã hội sử dụng dịch vụ đáp ứng nhu cầu, đảm bảo an sinh NLĐNC, đảm bảo an toàn xã hội,… để phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro.
- Phân loại lĩnh vực: Cung cấp đa dạng các loại hình dịch vụ cho người dân. Trong luận án này sẽ đề cập đến một số loại hình dịch vụ như tư vấn, tham vấn (tâm lý, sức khỏe, chính sách, việc làm…); cung cấp thông tin về nhà ở an toàn; việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ sinh kế; giáo dục, kết nối và chuyển gửi.
- Phân theo đơn vị cung cấp: Dịch vụ CTXH được cung cấp bởi các cơ sở, trung tâm công lập hoặc ngoài công lập như của tư nhân các tổ chức phi chính phủ hay của các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo khác. Mạng lưới cung cấp DVCTXH được tập hợp thành các tổ chức cung cấp dịch vụ để đáp ứng một cách toàn diện những nhu cầu khác nhau của NLĐNC khu vực KTPNN.
- Người cung cấp dịch vụ có thể là cán bộ xã/phường; NVCTXH chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp ở nhiều lĩnh vực khác nhau như tư vấn, tham vấn; việc làm; giáo dục; chính sách ASXH; trợ giúp xã hội,… gắn kết với nhau bởi chức năng hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVCTXH và họ trao đổi, chia sẻ với nhau những kiến thức, kỹ năng nhằm tăng cường cung cấp các DVCTXH cho NLĐNC khu vực KTPNN có nhu cầu.
- Hình thức cung cấp: Tùy theo từng đối tượng trả phí toàn bộ hay miễn giảm phí hoặc được miễn phí khi sử dụng dịch vụ. Hiện nay các đối tượng yếu thế đang được miễn phí khi sử dụng dịch vụ CTXH, trong thời gian tới sẽ mở rộng cung cấp DVCTXH cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng dịch vụ và phải trả phí..
- Phương pháp hỗ trợ: Tùy theo từng vấn đề của thân chủ NVCTXH có thể sử dụng phương pháp CTXH cá nhân CTXH nhóm hay cộng đồng để lên kế hoạch hỗ trợ thân chủ giải quyết vấn đề của thân chủ.
* Tiêu chí đánh giá về chất lượng DVCTXH đối với NLĐNC
- Tính sẵn có của các loại hình dịch vụ: Số lượng, chủng loại các loại hình DVCTXH và được cung cấp bởi nhân viên chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp cho NLĐNC dễ dàng sử dụng khi họ có nhu cầu.