Lượng Và Kim Ngạch Xuất Khẩu Thủy Sản Của Việt Nam Sang Eu Qua Các Tháng Trong Năm 2020 - 2021.

Do ảnh hưởng của thẻ vàng IUU, xuất khẩu thủy sản sang EU đã giảm đáng kể trong những năm qua. Năm 2018, năm đầu tiên chịu ảnh hưởng của thẻ vàng IUU, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU giảm xuống còn 1.35 tỷ USD. Từ vị trí thứ 2 trong các thị trường xuất khẩu thủy sản, sau khi EC cảnh báo thẻ vàng đối với thủy sản khai thác của Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Châu Âu đã tụt xuống đứng thứ 5 và tỉ trọng của thị trường sụt giảm từ 18% xuống 13%.

Năm 2019, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU đạt khoảng

1.29 tỷ USD, trong đó sản phẩm hải sản khai thác đóng góp khoảng 387 triệu USD. So với năm 2018, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU năm 2019 giảm 12%. Đặc biệt, hội nghị đánh giá 2 năm triển khai chương trình "Doanh nghiệp cam kết chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo qui định (IUU)" diễn ra trong bối cảnh đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu EC sang làm việc với các cơ quan hữu quan Việt Nam để kiểm tra việc thực hiện các khuyến nghị của EC sau năm bị cảnh cáo "thẻ vàng". Trong lần kiểm tra này, đoàn thanh tiến hành kiểm tra 4 nhóm khuyến nghị mà EC đã yêu cầu nước ta phải thực hiện là Khung pháp lý; Hệ thống theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động tàu cá; Thực thi pháp luật và Truy xuất nguồn gốc thủy sản từ khai thác. Đến nay, sau những năm thực hiện tốt các quy định cả nước có 62 doanh nghiệp cam kết IUU bằng việc tuân thủ nguyên tắc chỉ thu mua từ những tàu đánh bắt có đầy đủ giấy phép, nhật ký khai thác và chứng nhận của cảng. Theo báo cáo của Hiệp hội VASEP, sau năm EC cảnh báo thẻ vàng đối với hải sản khai thác của Việt Nam, xuất khẩu hải sản của Việt Nam sang thị trường EU đã bị tác động rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu giảm 6,5% còn gần 390 triệu USD trong năm 2018 và tiếp tục chững lại trong những tháng đầu năm năm 2019 với 251 triệu USD.

Năm 2020, tuy có hồi phục sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020 nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU giảm 6% so với năm 2019, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU đạt 1,22 tỷ USD. Tuy nhiên, theo Báo cáo khó dựa vào các số liệu xuất khẩu thủy sản sang EU năm 2020 để phân tích định lượng tác động từ thẻ vàng. Bởi, suy giảm xuất khẩu năm 2020 không chỉ chịu tác động bởi thẻ vàng, mà còn bị ảnh hưởng bởi cả đại dịch COVID-19. Mặt khác, xuất khẩu thủy sản sang EU từ nửa cuối năm 2020 còn được tác động từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã mang lại kết quả tích cực cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Thủy sản là một trong những ngành xuất khẩu được hưởng lợi đáng kể khi EVFTA có hiệu lực vì 50% số dòng thuế sẽ về 0% vào năm 2020, bao gồm các mặt hàng chính như tôm, cá ngừ, mực và bạch tuộc.

Nguồn Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam Biểu 1

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

Biểu đồ 2.1: Lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU qua các tháng trong năm 2020 - 2021.

Biểu đồ lượng và trị giá xuất khẩu năm 2021 cho thấy ngoại trừ tháng 2 (tháng có đợt nghỉ Tết nguyên đán) thì lượng và trị giá xuất khẩu thủy sản các tháng năm 2021 đều tăng so với năm trước. Cục Xuất nhập khẩu cho biết xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong 6 tháng đầu năm đạt khoảng 485,3 triệu USD và tăng 20% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, Hà Lan, Đức, Italia, Bỉ và Pháp là những thị trường xuất khẩu lớn nhất trong khối thị trường này. BCT nhận định, trong những tháng cuối năm 2021, nhu cầu tiêu thụ tại EU đang có xu hướng hồi phục trở lại cộng với những ưu đãi đặc biệt về thuế quan từ EVFTA sẽ tiếp tục tạo thuận lợi cho các sản phẩm thủy sản của Việt Nam tăng thêm tính cạnh tranh tại thị trường EU. Song trước diễn biến của dịch bệnh, ảnh hưởng của thẻ vàng IUU sẽ tiếp tục là những yếu tố tác động lớn nhất đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.

2.2.2 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu

Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của VN vẫn là tôm, cá biển, mực, bạch tuộc và các loại thủy sản đông lạnh và các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng XK của nước ta ngày càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc sản khác. Trong đó, tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, sản lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn, thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ của thế giới nói chung và của EU nói riêng.

Bảng 2.2: Kim ngạch các mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang EU giai đoạn 2018 - 6T 2021

Đơn vị: triệu USD


Mặt hàng

Năm

Tôm

Mực,

bạch tuộc

Thủy

sản khác

2018

307,1

838,3

53,6

152,7

2019

492,3

689,8

49,5

148,2

2020

411,5

591,6

45,2

135,8

6T 2021

151,053

255,7

19,1

78,057

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 59 trang tài liệu này.

Nguồn: Tổng Cục Hải quan

Về mặt hàng tôm

Kết thúc năm 2018, xuất khẩu tôm của Việt Nam không khả quan như mong đợi, giảm 7,8% so với năm 2017.Giá tôm trong nước có lúc giảm 20-30% cũng ảnh hưởng tới nguồn cung và nhu cầu thị trường và giá trị XK. Nguồn cung từ các nước sản xuất tôm như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia tăng, nên tôm Việt Nam không thể xuất mạnh sang thị trường này. EU vẫn là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm 23,6% tổng giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam đi các thị trường. Năm 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU đạt 838,3 triệu USD, giảm 2,8%. Xuất khẩu tôm sang EU tăng trưởng tốt trong nửa đầu năm và có xu hướng giảm trong nửa cuối năm.

Trong năm 2019, XK tôm Việt Nam sang thị trường EU đạt 689,8 triệu USD, giảm 17,7% so với năm 2018. Riêng trong quý IV/2019, XK tôm Việt Nam sang EU đạt 176,4 triệu USD, giảm 7,1% so với quý IV/2018. Trong quý cuối cùng của năm 2019, XK tôm sang EU có chiều hướng tốt hơn, không giảm sâu như 3 quý đầu năm. Cả năm 2019, XK tôm sang EU chỉ tăng nhẹ trong tháng 7 và 11, các tháng còn lại đều giảm. Trong đó Tôm chân trắng là sản phẩm chủ đạo XK sang EU, chiếm tỷ trọng 79,9% tổng các sản phẩm tôm xuất sang EU, tôm sú chiếm 12,2%, còn lại là các sản phẩm tôm biển. Giá trị XK các sản phẩm tôm chân trắng sang EU trong năm 2019 giảm mạnh hơn giá trị XK tôm sú sang thị trường này. Dưới đây là biểu đồ kim ngạch xuất khẩu tôm sang thị trường EU. Nhìn vào biểu đồ có thể thấy được sự giảm đáng kể trong kim ngạch của mặt hàng tôm khi xuất khẩu sang thị trường này.

Cả năm 2020, xuất khẩu của ngành thủy sản đạt kim ngạch 8,6 tỷ USD, trong đó riêng mặt hàng tôm xuất khẩu đạt 3,78 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng hơn 12,4%. Như vậy, mặc dù có những thời điểm trồi sụt thất thường trong năm vì dịch bệnh, thị trường xuất khẩu tôm đã trở thành điểm sáng của ngành xuất khẩu thủy sản năm 2020. Theo

VASEP, lĩnh vực xuất khẩu tôm Việt Nam năm 2020 hoạt động tốt mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, ở cả các nước nhập khẩu và các nước nguồn cung. Nhưng đến cuối năm, đã có cú nước rút ngoạn mục. Điều đáng lưu ý là xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU giảm liên tục từ tháng 3 đến tháng 6, nhưng từ tháng 7 và 8-2020 bắt đầu bật tăng so với những tháng trước đó. Cụ thể, tháng 7-2020 đạt 54,2 triệu USD, tăng 2% so với tháng 7-2019; tháng 8-2020, đạt 394,6 triệu USD, tăng gần 12% so với tháng 8-2019, và tăng 7,2 lần so với tháng 7-2020. Điều này được cho là nhờ tác động tích cực từ Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ đầu tháng 8-2020.

Nguồn Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam Biểu 2

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

Biểu đồ 2.2: Lượng và kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang thị trường EU theo quý năm 2020-2021

Từ biểu đồ thống kê cho biết xuất khẩu tôm sang thị trường EU 6 tháng đạt 255,7 triệu USD, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, riêng tôm chân trắng đạt trên 205 triệu USD, tăng 31%. Theo số liệu thống kê được từ Cục Hải quan, xuất khẩu tôm sang EU tăng trưởng mạnh do tôm là mặt hàng có thuế nhập khẩu ưu đãi theo EVFTA được cắt giảm ngay. Thị trường EU chiếm trên 14% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam, đứng thứ ba sau thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Về mặt hàng mực và bạch tuộc

EU là thị trường nhập khẩu mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 12,4%. Nếu như năm 2017, xuất khẩu mực Việt Nam sang thị trường này đạt tốc độ tăng trưởng trên 50% thì năm 2018 xuất khẩu sang thị trường này giảm 21,7% đạt trên 40triệu USD do tác động của thẻ vàng IUU. Trong tổng cơ cấu sản phẩm mưc, bạch tuộc xuất khẩu sang EU, mực chiếm tỷ trọng áp đảo 70%, còn lại bạch tuộc chiếm 30%. Trong số các sản phẩm mực xuất khẩu sang EU, mực sống/tươi/đông lạnh

(thuộc mã HS03) chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng giá trị XK giảm mạnh nhất 37,2%. Mực khô, nướng, (thuộc mã HS03) chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng giá trị XK tăng cao nhất. Tính tới cuối năm 2018, NK mực vào EU đạt 53.6 triệu USD, giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó Pháp và Bồ Đào Nha là 2 nước NK lớn nhất mặt hàng này trong khối.

Kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị

trường EU giai đoạn 2018 - 2020 và 6T 2021

60


50


40


30

xuất khẩu mực, bạch tuộc

20


10


0

Năm 2018 Năm 2019 Năm 2020 6T 2021

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị trường EU giai đoạn 2018 – 6T 2021


Nhìn vào biểu đồ ta thấy xuất khẩu mực, bạch tuộc sang liên tục giảm mạnh do chịu tác động của thẻ vàng IUU, cộng thêm tác động của dịch bệnh Covid-19 khiến nhu cầu giảm. Tuy nhiên, tháng 8/2020, xuất khẩu mực, bạch tuộc sang thị trường này đã tăng trở lại 10% đạt 5,8 triệu USD. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Pháp tăng trên 101% đạt 0,7 triệu USD. Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ 1/8/2020 đã mang lại ưu đãi thuế cho xuất khẩu mực, bạch tuộc Việt Nam sang EU giúp xuất khẩu mực, bạch tuộc sang EU trong những tháng cuối năm đạt được nhiều kết quả tốt. Tính đến 6 tháng đầu năm 2021 nhờ tăng trưởng tốt EU đã vượt qua Thái Lan trở thành thị trường NK mực, bạch tuộc lớn thứ 3 của Việt Nam, chiếm 10,8% tổng giá trị XK mực, bạch tuộc của Việt Nam đi các thị trường.

Về mặt hàng cá

Cá ngừ các loại và cá tra, là 2 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất sang thị EU, trong đó cá ngừ các loại tăng trưởng tốt, trong khi đó xuất khẩu cá tra giảm mạnh. Cá ngừ các loại chiếm 25,2% về lượng và chiếm 14% về trị giá; cá tra chiếm 15,8% về lượng và chiếm 7,1% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU.


Nguồn Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam Biểu 3

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

Biểu đồ 2.4: Lượng và kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU theo quý năm 2020-2021


Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cá ngừ các loại của Việt Nam tới thị trường EU trong quý II/2021 đạt 9,36 nghìn tấn với trị giá 45,05 triệu USD, tăng 43,9% về lượng và tăng 59,3% về trị giá so với quý I/2021; tăng 41,3% về lượng và tăng 50,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung nửa đầu năm 2021, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam tới thị trường EU đạt 15,87 nghìn tấn với trị giá 73,33 triệu USD, tăng 39,3% về lượng và tăng 31,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, chiếm 15,2% về lượng và chiếm 15,1% tổng trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU.

Nguồn Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam Biểu 4

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam

Biểu đồ 2.5: Lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang EU theo quý năm 2020-2021


Theo lộ trình giảm thuế của Hiệp định EVFTA, các sản phẩm cá tra xuất khẩu vào EU được giảm thuế về 0% sau 3 năm khi EVFTA có hiệu lực, riêng cá tra hun khói là 7 năm. Tuy vậy, trong những tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới thị trường EU gặp nhiều khó khăn trước tác động của dịch Covid-19. Trong quý II/2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới thị trường EU đạt 14,2 nghìn tấn với trị giá 32,1 triệu USD, tăng 26,8% về lượng và tăng 26,4% về trị giá so với quý I/2020; tăng 6,5% về lượng và giảm 3,8% về trị giá so với quý II/2020. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu cá tra của Việt Nam tới EU đạt 25,4 nghìn tấn, trị giá 57,52 triệu USD, giảm 12,2% về lượng và giảm 16,8% về trị giá so với cùng kỳ năm2020. Trong đó Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Italia... lần lượt là những thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam lớn nhất của EU.

Như vậy, Theo nhận định của Cục Xuất nhập khẩu nhu cầu các loại thủy sản thế giới nói chung và tại EU nói riêng dự kiến tiếp tục duy trì xu hướng tăng trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu của EU hồi phục trong khi nguồn cung của thế giới còn hạn chế. Tuy vậy, sức ép cạnh tranh và những quy định, rào cản kỹ thuật vẫn đang và sẽ tiếp tục gây khó khăn cho ngành thủy sản Việt Nam. Các đối thủ cạnh tranh quốc tế nói chung và ngay cả một số thị trường sở tại châu Âu nói riêng, hiện đang có xu hướng đưa ra quy định, tiêu chí khắt khe hơn đối với sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Châu Âu - thị trường lớn thứ 2 về nhập khẩu thủy sản Việt Nam.

2.2.3 Về thị trường xuất khẩu

Về thị trường, theo Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương, trong nhiều năm qua, Hà Lan luôn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU. Đón đầu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với những ưu đãi lớn về thuế đã và đang giúp mặt hàng thủy sản Việt Nam bước đầu tận dụng cơ hội, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường, bất chấp những khó khăn về dịch bệnh.

Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường tiềm năng của EU giai đoạn 2018 – 6T 2021

Đơn vị: Kim ngạch (triệu USD)


Năm

Thị trường

2018

2019

2020

6T 2021

Hà Lan

296

215,196

224

99,2

Đức

194,4

183,6

180,9

91,9

Italia

117,5

105,8

90,9

62,9

Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam

Trong EU, Việt Nam xuất khẩu thủy sản nhiều nhất sang các thị trường Hà Lan, Đức, Italy, Tây Ban Nha.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giảm liên tiếp trong 2 năm 2018 và 2019 là do chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” khiến cho xuất khẩu thủy sản khai thác tới EU giảm mạnh. Trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng nhẹ so với năm 2019 cho dù dịch Covid-19 tác động xấu tới nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hà Lan. Nguyên nhân chính là do xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giai đoạn cuối năm 2020 đã bứt phá khi EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Theo báo cáo xuất nhập khẩu thu được, trong 6 tháng đầu năm 2021,xuất khẩu thủysản của Việt Nam tới thị trường Hà Lan tăng 7,4% về lượng và tăng 4,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020 đạt 19.9 nghìn tấn với trị giá 99.2 triệu USD, chiếm 19,09% về lượng và chiếm 20,45% về trị giá xuất khẩu thủy sản tới EU. Đây là thị trường có tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU. Trong đó, xuất khẩu tôm chiếm 40% về lượng và 65,2% về trị giá; xuất khẩu cá tra chiếm 35,9% về lượng và 19,6% về trị giá; xuất khẩu cá ngừ chiếm 5,3% về lượng và 6,5% về trị giá... Trong ba nhóm hàng xuất khẩu chính chỉ có nhóm hàng tôm có lượng và trị giá xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2020.

Từ bảng số liệu cơ cấu kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang các thị trường EU, ta thấy được xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức tăng trong năm 2017 và 2018,

Xem tất cả 59 trang.

Ngày đăng: 17/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí