Các Nghiên Cứu Về Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Đối Với Người Lao Động Nhập Cư Khu Vực Kinh Tế Phi Nhà Nước

cận các dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo nghề hay ASXH. Vì vậy, người nhập cư có thể huy động nguồn vốn xã hội để vượt qua được mọi thách thức, rào cản trong quá trình nhập cư vào đô thị. Ngoài vốn xã hội thì NLĐNC có nhu cầu sử dụng nhiều nguồn vốn khác để sinh kế, hòa nhập cộng đồng tại nơi đến [119].

Nghiên cứu của Đào Bích Hà (2016), đã chỉ ra rằng các khác biệt về kinh tế - xã hội và chênh lệch thu nhập từ những công việc ở nông thôn và thành thị đã gây bất lợi cho người dân ở nông thôn và thúc đẩy họ ra đi. Những cơ hội học vấn, nghề nghiệp phong phú ở các đô thị thu hút người dân ở nông thôn chuyển đến đây sinh sống, lao động và học tập. Công việc bận rộn ở thành phố mà nữ di cư không có nhiều thời gian chăm sóc con nhỏ, ngược lại người chồng lại phải chăm sóc con và nhà cửa. Chính điều này cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ mẹ - con và thiếu thốn về mặt tình cảm... Vì vậy, rất cần sự hỗ trợ từ các nhân viên CTXH đang làm việc tại các ban ngành, đoàn thể và các tổ chức xã hội ở địa phương cho các hộ gia đình này [45].

Nghiên cứu của Trần Văn Huấn & Nguyễn Hữu Hoàng (2016), cho thấy di cư là một nguồn lao động bổ sung quan trọng cho khu vực đô thị, góp phần cải thiện đời sống của nhiều hộ gia đình di cư ở nông thôn. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy còn khoảng trống về chính sách đối với họ và đặc biệt là làm tăng tính tổn thương của người di cư nhất là đối với nữ. Để xóa bỏ các rào cản và giảm tính tổn thương cho nữ lao động di cư, cần có những nghiên cứu rộng và sâu hơn để đánh giá một cách đầy đủ, xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với lao động nữ di cư [61].

1.2.2. Các nghiên cứu về khả năng tiếp cận chính sách an sinh xã hội của người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước

Người lao động nhập cư là những người sống cùng một địa bàn dân cư của cộng đồng đô thị nhưng không có quyền như người sở tại, không đến được với các dịch vụ xã hội, kể cả chương trình xóa đói giảm nghèo. NLĐNC thường sống cách biệt với cộng đồng địa phương nên họ rất ít và hầu như không tiếp cận được với các dịch vụ xã hội của Chính phủ và các tổ chức xã hội. Cuộc sống của họ không ổn định do thiếu các nguồn lực và quan hệ xã hội cần thiết [81].

Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Thu Sa (1998), Trần Trọng Đức 2000), cho biết di dân là chiến lược sống mà hộ gia đình nông dân lựa chọn. Vì vậy trước khi ra đi người nhập cư luôn cân nhắc kỹ càng, và có sự chọn lọc về độ tuổi. Chính tính chọn lọc cao của người di cư đã đem đến cho họ một tiềm năng hội nhập không nhỏ. Tuy nhiên, họ cũng phải nỗ lực rất nhiều để không bị biến thành nhóm bên lề xã hội. Mặt khác, những NLĐNC tự do luôn tìm được việc làm nhanh hơn so với người nhập cư có tổ

chức, và thời gian tìm việc làm bình quân của họ ngày càng được rút ngắn hơn trước vì các mối quan hệ như: gia đình, họ hàng, đồng hương… Đặc biệt là mạng lưới di cư với vai trò tạo nên một hệ thống an sinh xã hội riêng của NLĐNC tại đô thị. Bài viết gợi mở cho đề tài trong quá trình huy động, kết nối nguồn lực cần chú ý đến huy động nguồn lực từ mạng lưới của những NLĐNC [38], [46], [60].

Nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh và Nguyễn Bình Minh (1998), chỉ ra rằng, nguyên nhân do sự quá tải cơ sở hạ tầng trong đó có dịch vụ giáo dục thường bị xem là do dân số quá đông ở thành phố, xã hội thường quy kết tình trạng nhập cư. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng sự có mặt của NLĐNC tự phát không làm gia tăng áp lực đối với tình trạng trường lớp vì bản thân lao động ngoại tỉnh không được tham gia và thụ hưởng dịch vụ giáo dục ở thành phố. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ bệnh tật, ốm đau của NLĐNC tự phát không có gì khác biệt với nhóm di cư có tổ chức. Thông thường khi bệnh tật, ốm đau NLĐNC tự do thường ra các nhà thuốc tây để mua. Do vậy, rất khó để kết luận chính tình trạng nhập cư tự do là gánh nặng cho dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ở thành phố. Bài viết đã gợi mở cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về việc phát triển mạng lưới dịch vụ nhất là việc hoạch định các chính sách phải bao phủ đến NLĐNC. Đây là nguồn lực hết sức cần thiết trong quá trình phát triển [4]. ActionAid (2005), Đặng Nguyên Anh (2005), Nguyễn Hữu Minh (2005b),

Văn Ngọc Lan và cộng sự (2005), Bùi Thế Cường (2005), nhận xét với vị thế là người không đăng ký cư trú chính thức, người nhập cư bị hạn chế trong xin việc làm trong khu vực chính thức, đào tạo nghề, điều kiện làm việc kém, và bất lợi trong việc hưởng những quyền lợi của người lao động. NLĐNC gặp phải nhiều khó khăn khi tiếp cận DVXH ở đô thị và khi tiếp cận được dịch vụ thì thường là dịch vụ với chất lượng kém, hoặc trả chi phí dịch vụ cao,… Đây là những khoảng trống về mặt chính sách đối với NLĐNC làm việc trong khu vực KTPNN [33], [46], [81], [121].

ActionAid (2005), Ngân hàng Thế giới (2005), Lê Bạch Dương và cộng sự (2005), cho rằng người di cư đặc biệt bị nghèo hơn do việc cung cấp dịch vụ xã hội kém hơn so với người thành phố. Điều này có nghĩa là việc đăng ký cư trú đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ sử dụng và chất lượng dịch vụ chứ không phải là điều kiện kinh tế xã hội. Chính những khó khăn làm cho người di dân không tiếp cận được đến các dịch vụ xã hội cơ bản, cộng thêm những khó khăn khác nữa là nguyên nhân đẩy người di dân vào tình trạng bị lạm dụng, bị bóc lột. Kết quả là họ bị đẩy vào hoàn cảnh dễ bị tổn thương, hoặc thậm chí nhiều người trong số họ trở thành người nghèo đô thị. Cần có những nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa, ban hành các chính sách mới liên quan đến NLĐNC có tính khả thi và hiệu quả hơn, trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

chung của cộng đồng và tạo điều kiện để NLĐNC được tiếp cận các quyền cơ bản của công dân một cách tốt nhất tại nơi đến [33].

Nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2007), đề cập đến khả năng tiếp cận một yếu tố của ASXH là bảo hiểm y tế của các nhóm: người nghèo, người nhập cư và cán bộ công chức ở đô thị. Theo nhóm nghiên cứu, bảo hiểm y tế là phương thức lâu dài và là lựa chọn của người nghèo vì họ không có khả năng chi trả cho các dịch vụ nhiều tiền hơn. Các biến ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế của người nghèo bao gồm: địa bàn cư trú, dân tộc, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe. Một trong những lý do người dân chưa tiếp cận được với bảo hiểm y tế có liên quan đến việc chỉ bán thẻ theo phong trào, thí điểm tại một số địa phương nhất định và dành cho một số đối tượng hạn chế: đối tượng chính sách, học sinh sinh viên, người nghèo hay bảo hiểm y tế bắt buộc [6].

Dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh - 5

Báo cáo phát triển con người của UNDP (2010), cho biết do không có hộ khẩu nên NLĐNC ở đô thị không đủ điều kiện để được hưởng các DVXH trong các chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, bao gồm các khoản vay lãi suất thấp, khám chữa bệnh miễn phí, gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận giáo dục tại các trường công lập tại địa bàn cư trú. Nhiều NLĐNC nghèo sống trong điều kiện nhà ở tồi tàn, phải đối mặt với rào cản trong việc tiếp cận và bảo đảm quyền sử dụng dất, sở hữu nhà ở, cũng như các dịch vụ điện, nước sạch và vệ sinh. Như vậy, ngoài yếu tố hộ khẩu còn một số yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dịch vụ ASXH đối với NLĐNC,… [129], [46], [132].

Nghiên cứu của Lưu Quang Tuấn (2011) và Bùi Thị Xuân Mai (2014), đã đã chỉ ra nhu cầu sử dụng các dịch vụ ASXH của người nghèo đô thị là lớn, tuy nhiên một bộ phận NLĐNC còn chưa được tiếp cận các DVXH không chỉ là thu nhập của họ thấp mà tỷ lệ phụ thuộc vào nhóm nghèo còn cao. Đồng thời, nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn mà NLĐNC gặp phải cũng như hiểu biết về các dịch vụ trợ giúp xã hội giúp họ giải quyết những vấn đề của quá trình di cư. Việc thiếu các thông tin tiếp cận dịch vụ trợ giúp xã hội là vấn đề cần lưu ý bởi nó không chỉ là những khó khăn đối với thanh niên nông thôn mà nó còn làm cho gia tăng vấn đề hay cản trở sự giải quyết những áp lực tâm lý của thanh niên di cư. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng xử lý hay phòng ngừa những vấn đề tâm lý xã hội mà thanh niên nông thôn di cư có thể phải đối mặt. Bài viết cũng chỉ mới đề cập đến những vấn đề tâm lý xã hội của thanh niên di cư, mà các khía cạnh khác chưa được đề cập đến [126; tr14]; [77].

Action Aid Việt Nam (2014), trong báo cáo tóm tắt chính sách “An sinh xã hội cho người nhập cư” chỉ ra những thiếu hụt, tồn tại liên quan đến NLĐNC. Mặc dù

nhiều hợp phần của ASXH ưu tiên nhóm đối tượng nghèo, những bằng chứng thu thập thập được lại không cho thấy các chương trình này tác động có lợi lớn đến đời sống của NLĐNC và con em họ. NLĐNC khu vực KTPNN đóng góp đóng góp đáng kể vào sự phát triển đất nước.Tuy nhiên, các quyền cơ bản về chăm sóc y tế, đạo tạo nghề, giáo dục dành cho NLĐNC ở khu vực này và con cái họ vẫn chưa được chú ý đúng mức. Bài viết chỉ mới đề cập đến một số quyền cơ bản về y tế, giáo dục, đào tạo nghề của NLĐNC. Ngoài ra, NLĐNC còn có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ ASXH khác tại nơi đến để giải quyết được các vấn đề của họ [1].

Chương trình quyền lao động của Oxfam tại Việt Nam (2015), đã chỉ ra Chiến lược ASXH 2010 – 2020 là nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện khuyến nghị ILO 202 về sàn ASXH và đã có một số thay đổi trong luật nhằm mở rộng các chế độ ASXH cho NLĐNC trong nền KTPNN. Tuy nhiên, đa số NLĐNC chưa tiếp cận được đầy đủ và công bằng đến ASXH. Để đảm bảo quyền và lợi ích của NLĐNC phù hợp với các mục tiêu ASXH quốc gia góp phần vào phát triển bền vững, để họ có thể tiếp cận và thụ hưởng công bằng ASXH, cần có nhiều nghiên cứu rộng hơn trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp phù hợp để gỡ bỏ những rào cản hiện nay đối với NLĐNC [92].

Nghiên cứu của Đoàn Hiền (2020), đã chỉ ra NLĐNC có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đô thị nói riêng và kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Đây cũng là lực lượng lao động dễ bị tổn thương và khó tiếp cận với các chính sách ASXH. Bên cạnh đó, việc quản lý NLĐNC còn nhiều bất cập; công tác thông tin, truyền thông còn hạn chế, phần lớn NLĐNC làm việc trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn và không có hợp đồng lao động và đặc biệt các chế độ, chính sách về bảo hiểm cho NLĐNC triển khai chưa hiệu quả. Do vậy, cần xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ tới đối tượng NLĐNC tập trung vào 4 nội dung chính như: tăng cường cơ hội có việc làm; mở rộng cơ hội cho NLĐNC tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm; hỗ trợ thường xuyên đối với NLĐNC có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất khi họ gặp các rủi ro không lường trước; tăng tiếp cận của NLĐNC với hệ thống DVXH cơ bản. Các quy định, chính sách đã đem lại những cải thiện đáng kể trong việc hỗ trợ NLĐNC tìm kiếm việc làm và thụ hưởng các dịch vụ ASXH tại nơi đến [57].

Nghiên cứu của Duy Hưng (2021) cho thấy, có vai trò quan trọng trong lực lượng lao động của cả nước cũng như phát triển kinh tế - xã hội đất nước, nhưng NLĐNC vẫn là nhóm dễ bị tổn thương nhất đối mặt với tình trạng việc làm bấp bênh, không ổn

định, thời gian lao động dài mà tiền công được trả thấp hơn. Mặc dù, họ tham gia vào cả lực lượng chính thức và phi chính thức nhưng nhiều NLĐNC khó tiếp cận được với các chính sách về ASXH, giảm nghèo, BHXH, bảo trợ xã hội, các DVXH cơ bản như: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… [64]. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sống của NLĐNC tại nơi đến, đặc biệt còn nhiều khoảng trống trong việc thực hiện chính sách ASXH đối với NLĐNC làm việc ở khu vực KTPNN. Vì vậy, cần xây dựng hệ thống chính sách ASXH đa dạng, toàn diện và cần có lộ trình để bao phủ tới đối tượng NLĐNC.

1.2.3. Các nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người lao động nhập cư khu vực kinh tế phi nhà nước

Công tác xã hội là một ngành mới phát triển ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có một số tác giả quan tâm đến dịch vụ và DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN, song chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Từ những tiếp cận CTXH và cách tiếp cận khác được sử dụng trong luận án đóng góp nền tảng cơ bản lý luận về DVCTXH, khái quát về thực trạng, xu hướng về NLĐNC khu vực KTPNN trong việc sử dụng các DVCTXH. Có thể khái quát một số nghiên cứu về dịch vụ và DVCTXH đối với NLĐNC khu vực KTPNN.

Ở Việt Nam kể từ khi Đề án Phát triển nghề CTXH (Quyết định 32/2010) được Chính phủ chính thức phê duyệt và đi vào hoạt động, nhu cầu nâng cao, hoàn thiện các hoạt động, DVCTXH ngày càng trở nên cấp thiết hơn và được quan tâm và thúc đẩy mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê đến năm 2014, Việt Nam đã có đến 40 Trung tâm cung cấp DVCTXH từ tuyến tỉnh đến quận, huyện phục vụ cho đối tượng tại cộng đồng, cũng như nhiều Trung tâm CTXH trong các bệnh viện, trường học được thành lập, cung cấp các dịch vụ xã hội khác nhau cho các đối tượng có nhu cầu [118]. Tùy thuộc vào chức năng và nhiệm các trung tâm CTXH cung cấp DVCTXH chủ yếu cho các đối tượng Bảo trợ xã hội. Nhìn chung, các DVCTXH đáp ứng được phần nào cho các nhóm đối tượng như trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; người cao tuổi; người khuyết tật, người nghèo, nạn nhân bị bạo lực gia đình; người bị nhiễm HIV; người tâm thần,... còn các đối tượng khác thì chưa thực hiện được. Thực tế cho thấy, DVCTXH hiện nay chưa có tiêu chuẩn nào về đánh giá chất lượng, chi phí và giá cả dịch vụ, định mức kinh tế kỹ thuật, giám sát theo dõi được quá trình các cơ sở cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.

Tác giả Nguyễn Hải Hữu (2011) khi đề cập đến mạng lưới DVXH đã chỉ ra những khoảng trống trong việc cung cấp các DVXH ở các trung tâm và nhất là cộng

đồng. Hiện nay cộng đồng đang cung cấp thiếu vắng các dịch vụ CTXH mang tính chuyên sâu. Từ đó nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị về phát triển mạng lưới dịch vụ ở Việt Nam như các dịch vụ cần được thiết lập và cung cấp cho các đối tượng có vấn đề xã hội ở các cấp Trung ương và tại cộng đồng nới đối tượng sinh sống, các cơ sở cung cấp DVCTXH có thể là tư nhân hay công lập. Các cơ sở này, ngoài việc cung cấp dịch vụ trực tiếp như tư vấn, tham vấn, cung cấp kỹ năng, nâng cao năng lực còn thực hiện kết nối dịch vụ để trợ giúp đối tượng. Bài viết đề cập cần có những nghiên cứu sâu hơn để đưa ra các giải pháp phát triển mạng lưới cung cấp DVCTXH cho các nhóm đối tượng có nhu cầu tại cộng đồng [66].

Nghiên cứu của Trần Hậu - Đoàn Minh Tuấn (2012), cho biết, phát triển và quản lý phát triển DVXH đang đặt ra nhiều vấn đề thu hút sự quan tâm của người dân và ngay cả các nhà quản lý, bởi hệ thống dịch vụ xã hội còn tồn tại không ít nghịch lý, việc phát triển, quản lý phát triển DVCTXH chưa thật sự tương xứng với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, chính sách phát triển DVXH thiếu đồng bộ, bất cập mà nguyên nhân sâu xa của những hạn chế đó là do thiếu những luận cứ khoa học làm cơ sở vững chắc cho các việc hoạch định các chính sách quản lý và phát triển DVXH. Bài viết gợi mở còn thiếu những luận cứ khoa học để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách cũng như huy động các nguồn lực tham gia cung ứng DVCTXH [56].

Nghiên cứu của Đinh Thị Giang (2014), cho biết đô thị với ý nghĩa là thị trường lao động đa dạng, đang có sức hút lớn đối với NLĐNC và mang lại thu nhập cao cho họ. Tuy nhiên, bên cạnh sự gia tăng dân số ở các khu vực đô thị thì cơ sở vật chất không đáp ứng các nhu cầu về các dịch vụ xã hội cho NLĐNC tại nơi đến. Mặt khác, nghiên cứu cũng làm sáng tỏ tình hình tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của NLĐNC và những yếu tố như cơ sở vật chất, mạng lưới cung cấp dịch vụ, thái độ,... đã cản trở đến việc sử dụng dịch vụ y tế của họ tại khu công nghiệp [39].

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Huệ (2015) cho thấy, người nghèo nhập cư tại đô thị là những người thiếu vốn xã hội, hạn chế trong việc tiếp cận các DVXH, đặc biệt là dịch vụ công, họ sống trong một môi trường kém tiện nghi và thiếu an toàn. Đa số họ đều tiếp cận kém với hệ thống ASXH, do làm việc trong khu vực KTPNN, tuy năng động nhưng bấp bênh và nhiều rủi ro. Việc không có thông tin là rào cản rất lớn trong việc tiếp cận các DVXH của người nghèo nhập cư. Ngoài việc thiếu thông tin thì còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ của NLĐNC [62].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thái Lan & cộng sự (2016), đã đưa ra các yếu tố chuyên nghiệp của nghề CTXH cũng như dịch vụ xã hội, gồm: sự hình thành được

khuôn khổ pháp lý, quá trình cung cấp dịch vụ cho các đối tượng yếu thế dựa trên nền tảng khoa học có tính chuyên môn và các DVCTXH chuyên sâu, các dịch vụ cung cấp thông qua hệ thống cung cấp dịch vụ có tổ chức, được giám sát chất lượng và tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức nghề. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đề xuất cần có những nghiên cứu sâu rộng để đưa ra các giải pháp phát triển mạng lưới cung cấp DVCTXH nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn và đảm bảo chất lượng mang lại lợi ích tích cực cho các đối tượng yếu thếu và có nhu cầu trong xã hội [73].

Tác giả Hà Thị Thư (2016), đã đề đến việc chuyên nghiệp hóa các DVCTXH trong thực tiễn là một định hướng mang tầm vóc thời đại, chuyên môn hóa và hội nhập quốc tế. Đồng thời tác giả đã chỉ ra nhu cầu về DVCTXH cho các nhóm yếu thế là quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, các DVCTXH này còn thiếu tính chuyên nghiệp, gồm “con người chuyên nghiệp” và “môi trường chuyên nghiệp”. Trên cơ sơ đó, tác giả cho biết phát triển DVCTXH và chú ý sự chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ là vấn đề cần thúc đẩy nhanh chóng. Sự chuyên nghiệp là nhằm tạo ra sự hoàn chỉnh, chất lượng, hiệu quả và tin cậy, thân thiện trong việc cung cấp các hoạt động đem lại sự thỏa mãn cao nhất cho các bên tham gia. Đây là một trong những vấn đề gợi mở khi nghiên cứu về cung cấp DVCTXH cần chú ý đến tính chuyên nghiệp trong việc hỗ trợ NLĐNC tiếp cận các dịch vụ tại nơi đến [118].

Tác giả Hoàng Thị Nga & Vũ Thị Hồng Khanh (2016), cho biết NVCTXH cần hỗ trợ cho các bậc cha mẹ trong các gia đình NLĐNC tại khu chế xuất, khu công nghiệp có điều kiện tiếp cận công việc tốt hơn, nâng cao đời sống vật chất, đồng thời tạo điều kiện cho họ có nhận thức và ý thức tốt hơn trong việc vợ/chồng chăm sóc lẫn nhau và cùng phối hợp trong việc chăm sóc con cái... nhằm cải thiện môi trường xã hội để hỗ trợ cá nhân, gia đình công nhân thực hiện được các chức năng, vai trò của họ đạt hiệu quả. Bài viết chỉ mới đề cập đến nhu cầu về việc làm, nhu cầu chăm sóc con cái của NLĐNC. Ngoài ra, ở đô thị họ còn nhiều nhu cầu khác cần sự hỗ trợ của NVCTXH [86].

Nghiên cứu của Nguyễn Quang Tuấn (2016), đã chỉ ra CTXH hướng đến giúp đỡ cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi tích cực giúp họ hòa nhập cộng đồng tại nơi đến. Qua đó, tác giả đưa ra thực trạng CTXH và vai trò của NVCTXH trong các hoạt động trợ giúp người lao động di cư ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng gợi mở cần có những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá nhu cầu, sự chuyên nghiệp hóa cung cấp các DVCTXH đối với họ [127].

Nghiên cứu của Lê Thị Phương Hải & Lê Anh Vũ (2016), cho thấy trẻ em nhập cư đa số có hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế đang sống ở các khu trọ phức tạp có nhiều tệ nạn xã hội, các em không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản về nghỉ ngơi và giải trí. Bên cạnh đó, các em còn đối diện với nguy cơ bị bạo hành ngay trong gia đình của mình. Từ những vấn đề thực trạng trên, tác giả cũng đề xuất cần có những nghiên cứu tiếp theo để cung cấp những dịch vụ CTXH tập trung vào việc phòng ngừa đối với những vấn đề mà trẻ em nhập cư gặp phải [52].

Nghiên cứu của Trương Nguyễn Bảo Trân (2016), đã chỉ ra thực trạng sử dụng dịch vụ CTXH cũng như đánh giá kết quả của dịch vụ CTXH đối với NLĐNC. Tuy nhiên, trong nghiên cứu tác giả chưa phân loại NLĐNC theo các dạng như: lao động tự do - lao động trong các nhà máy, nữ - nam, độc thân - gia đình.... vì theo phân loại thì sẽ có những nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH khác nhau. Vai trò điều phối mạng lưới còn bỏ ngỏ, hiện nay các tổ chức cung cấp mang tính tự phát (tạm gọi), còn thiếu việc kết nối các dịch vụ thành mạng lưới và vai trò điều phối mạng lưới [128].

Nghiên cứu của Phạm Văn Quyết, Trần Văn Kham (2016), đã chỉ ra NLĐNC nghèo ở đô thị thường chỉ bó hẹp trong quan hệ với người thân, anh em, họ hàng, bạn bè những người cùng hoàn cảnh, ít chú ý sử dụng mạng lưới xã hội hiện đại. Bài viết gợi mở cần có những nghiên cứu tiếp theo và đưa ra các khuyến nghị tạo dựng mạng lưới dịch vụ xã hội trợ giúp, thiết lập các mô hình DVCTXH, trợ giúp cá nhân – nhóm, trợ giúp đồng đẳng,… vào thực tiễn để thúc đẩy hòa nhập xã hội của nhóm đối tượng này [97], [98].

Nghiên cứu của Phạm Thanh Hải (2017), cho thấy NLĐNC vào thành phố hiện nay đang đối mặt với hàng loạt khó khăn về việc làm, thu nhập, thiếu thông tin về pháp luật cũng như trong đời sống xã hội họ có nguy cơ hoặc bị hạn chế tiếp cận với các dịch vụ xã hội như: nhà ở, giáo dục, y tế, thông tin, tiền điện, nước phải trả giá cao... Đồng thời, tác giả đã chỉ ra cần có những nghiên cứu sâu rộng hơn để làm rõ vai trò của nhân viên CTXH hỗ trợ đối với NLĐNC sử dụng dịch vụ CTXH nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ [47].

Nghiên cứu của Nguyễn Hải Hữu (2019), đã chỉ ra đối tượng tiềm năng phục vụ của CTXH rất lớn bao gồm: người cao tuổi; người khuyết tật; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; người bị bạo lực, xâm hại tình dục và bị mua bán trở về; người có vấn đề sức khỏe tâm thần; người di cư/nhập cư vào các đô thị,…Tuy nhiên, ở nước ta đã có ít nhất 29 nhóm DVCTXH, các dịch vụ mang tính chất chăm sóc nuôi dưỡng dài hạn, chăm sóc nuôi dưỡng bán trú, hỗ trợ giáo dục, dạy nghề, phục hồi chức năng, và các hoạt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/03/2023