Các Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Thừa Kế Ở Việt Nam Hiện Nay

Thứ ba, hoàn thiện PLVTK phải trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước phải phù hợp với điều kiện phát triến kinh tế, xã hội, phong tục tập quán nước ta.

So với nhiều nước trên thế giới, PLVTK ở Việt Nam còn tồn tại một số điểm hạn chế. Chúng ta còn thiếu kinh nghiệm cả về quy trình ban hành văn bản cũng như xây dựng nội dung các quy định về thừa kế. Vì thế nghiên cứu học tập kinh nghiệm của các nước là một việc làm rất cần thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Mỗi nước có những quan niệm khác nhau về gia đình và bổn phận của cá nhân trong gia đình và trong quan hệ họ hàng. Do có những quan niệm khác nhau về đạo đức về tôn giáo của mỗi dân tộc mà pháp luật của mỗi quốc gia có sự quy định khác nhau về thừa kế, sự khác nhau đó xuất phát từ phong tục, truyền thống văn hoá, cơ sở vật chất và hoàn cảnh xã hội khác nhau mà mỗi nước có sự tác động mạnh mẽ tới việc xây dựng pháp luật. Tuy vậy, vấn đề thừa kế, bao gồm các quan hệ xã hội, quan hệ tài sản luôn luôn tồn tại trong bất cứ chế độ xã hội nào, bên cạnh những đặc điểm riêng nó vẫn có những đặc điểm chung, điều này thể hiện rõ nét trong PLVTK của các nước trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Đó là PLVTK các nước đều có bản chất là bảo vệ lợi ích của các thành viên trong gia đình, trong dòng tộc, đồng thời tạo điều kiện cho người nước ngoài thực hiện quyền thừa kế một cách chủ động, thuận lợi. Trong đó, các quốc gia ngày càng có nhiều ưu đãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sự minh bạch rõ ràng về mặt luật pháp của nhiều nước cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng vào việc bảo vệ các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội... giữa các quốc gia sở tại và các nước.

Một trong những yêu cầu về hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam là tạo ra sự phù hợp nhất định của pháp luật nước ta đối với những nguyên tắc, thông lệ phổ biến trong các hệ thống pháp luật. Nếu không, pháp luật trong lĩnh vực này sẽ bị lạc hậu so với khu vực và thế giới, không có sự hấp dẫn đối với các chủ thể nước ngoài, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay của nước ta thì việc học tập những kinh nghiệm, tinh hoa của các nước trong khu vực và trên thế giới là rất cần thiết. Tuy nhiên cần bảo đảm tính cẩn trọng trong việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài. Thực tiễn cho thấy, kinh nghiệm thu được về tác động của các đạo luật ở nước khác thường là những nguồn có giá trị tham khảo cho các giả thuyết giải

thích và chứng minh về hậu quả xã hội của các biện pháp pháp lý đang đề xuất. Tuy nhiên, do hành vi của các chủ thể xã hội phản ánh thực trạng cụ thể của mỗi nước mà nước đó lại có điều kiện kinh tế - xã hội không giống Việt Nam, nên việc sao chép của các nước khác không bao giờ đem đến hiệu quả như mong muốn, nếu áp dụng một cách rập khuôn, máy móc thì chắc chắn không thể tránh khỏi những khập khiễng, không có tính khả thi. Vì thế, việc học tập kinh nghiệm pháp luật về thừa kế của nước ngoài là vô cùng quan trọng nhưng quan trọng hơn là phải vận dụng những kinh nghiệm đó vào xây dựng PLVTK sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong thời kỳ đổi mới, đảm bảo mỗi quy định của pháp luật về thừa kế vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Như vậy, xây dựng và hoàn thiện PLVTK phải theo quan điểm thực tiễn, xuất phát từ cuộc sống, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, trình độ văn hoá pháp luật của nhân dân cũng như những truyền thống, đạo đức, tập quán tốt đẹp của dân tộc và bản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới, cần phải tiếp thu, kế thừa sáng tạo, có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại đã đạt được, những kinh nghiệm xây dựng, tổ chức và thi hành pháp luật về thừa kế của các nước, đảm bảo kết hợp hài hoà tính truyền thống và tính hiện đại của pháp luật.

Thứ tư, hoàn thiện PLVTK phải dự tính các điều kiện bảo đảm hiệu lực hiệu quả của pháp luật trong cuộc sống

Một trong những chức năng cơ bản của pháp luật là chức năng điều chỉnh, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội và hướng các quan hệ này theo hướng có lợi. Nếu như các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội không mang tính khả thi thì có nghĩa chức năng điều chỉnh của pháp luật không phát huy được tác dụng, pháp luật lúc này chỉ còn là hình thức [77, tr.75].

Điều này chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như PLVTK nói riêng. Trong những năm vừa qua, do chúng ta cố gắng làm biến đổi pháp luật một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới, nên đã làm cho một số lĩnh vực pháp luật thiếu tính thực tiễn. Rất nhiều quy phạm pháp luật, kể cả một số quy phạm PLVTK được ban hành nhưng không đi vào thực tiễn cuộc sống. Nhưng văn bản này nếu không được sửa đổi bổ sung thì chúng mãi mãi chỉ là những văn bản để " trang trí" làm rườm rà thêm cho hệ thống pháp luật của chúng ta mà thôi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện PLVTK, phải tính đến tính khả thi và hiệu quả pháp luật một cách đầy đủ toàn diện, phải tính đến cả các điều kiện về cơ chế tổ chức, đội ngũ cán bộ, nguồn lực tài chính và điều kiện vật chất khác nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật. Cần khắc phục tình trạng chờ đợi, thiếu phối hợp, ở khâu nào chỉ biết khâu đó, thiếu đồng bộ, lại thiếu nghiêm minh, tuỳ tiện trong xây, thực hiện pháp luật về thừa kế, phải có những biện pháp vận dụng, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân, tổ chức tốt công tác thi hành, áp dụng pháp luật. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm cho pháp luật về thừa kế được thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ.

Thứ năm, hoàn thành PLVTK phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật.

Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay - 11

Pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời, xây dựng pháp luật là tiền đề để có pháp luật, còn pháp luật là sản phẩm của hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chất lượng của pháp luật chịu ảnh hưởng trực tiếp từ năng lực, trình độ và phương pháp của chủ thể xây dựng... nó, hay nói một cách tổng quát hơn, pháp luật chịu sự tác động trực tiếp từ hoạt động xây dựng pháp luật [72, tr.99].

Trong những năm qua, công tác xây dựng pháp luật về dân sự nói chung và PLVTK nói riêng đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Quốc hội, UBTVQH đã ban hành được Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, bước đầu đã đáp ứng nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật, quan hệ xã hội dân sự và về kế thừa góp phần đáp ứng nhu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, góp phần vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, do những hạn chế về năng lực, trình độ của người xây dựng dự thảo văn bản, về cách thức phân công, phân cấp ban hành văn bản, về trình tự xây dựng văn bản, nên PLVTK hiện hành còn khá nhiều bất cập, hạn chế. Do vậy, hoàn thiện PLVTK phải gắn liền với hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật trên những phương diện sau:

Trước hết cần bảo đảm dân chủ và pháp chế trong xây dựng PLVTK. Trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, hệ thống pháp luật trong đó có PLVTK thật sự phải do nhân dân làm nên, phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện PLVTK đòi hỏi phải thu hút được sự tham gia đông đảo và có hiệu quả nhân dân. Đặc biệt là các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản PLVTK, các tổ chức kinh tế - xã hội đại diện cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý

trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội vào quá trình dự báo hoạch định chính sách pháp luật cũng như quá trình xây dựng các văn bản pháp luật cụ thể. Đồng thời phải đảm bảo phát huy quyền sáng kiến lập pháp của các đại biểu quốc hội, thực hiện đầy đủ nguyên tắc dân chủ công khai trong các giai đoạn, soạn thảo, thảo luận, thông qua và công bố các dự án, tổ chức khác có thẩm quyền.

Mặt khác, cần phải quy định cụ thể hơn về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của tất cả các cơ quan có thẩm quyền ở trung ương. Không chỉ quy định xây dựng các luật mà cả các văn bản dưới luật, trong đó có các văn bản của các bộ, ngành cũng phải được quy định một cách rõ ràng, đầy đủ trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật coi đó là khuôn mẫu để các cơ quan nhà nước thực hiện.

Hơn nữa, đổi mới cách thức phân công soạn thảo và thẩm định dự án luật, pháp lệnh và các nghị định trong đó có các văn bản pháp luật quy định về thừa kế khi có sáng kiến pháp luật, quốc hội hay chính phủ cần lập tiểu ban soạn thảo các văn bản luật hay dưới luật độc lập với bộ hay với ngành có liên quan.

Chuyên gia xây dựng dự thảo phải là người có chuyên môn thực sự, đồng thời làm việc hoàn toàn độc lập, khách quan, không chịu sự "chỉ đạo" của thủ tướng. Khi đó tính khách quan, tính đồng bộ pháp luật mới có cơ hội được đảm bảo. Song song với quá trình xây dựng luật, pháp lệnh, phải triển khai luôn việc xây dựng các nghị định hướng dẫn cụ thể để khi các văn bản ra đời thì sẽ được triển khai một cách đồng bộ, rõ ràng khắc phục tình trạng luật hay pháp lệnh bị vô hiệu hoá hoặc bị ngừng trệ bởi văn bản cấp dưới [58, tr.100].

Như vậy nếu chúng ta có một quy trình xây dựng luật một cách hợp lý, hiệu quả, phát huy tính dân chủ, công khai và tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và người có thẩm quyền trong lĩnh vực này, thì chắc chắn việc hoàn thiện PLVTK sẽ đạt kết quả tốt đẹp trong thời gian tới.

Trên đây là những quan điểm cơ bản hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Việc hoàn thiện phải được nhìn nhận một cách tổng quát kết hợp với việc hoàn thiện cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, phong tục tập quán trong nước, điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Kết hợp được những yếu tố trong nước với các điều kiện quốc tế, phù hợp với xu thế thời đại để xây dựng và hoàn thiện PLVTK vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ của nhà nước ta.

Các quan điểm đó phải được thể hiện xuyên suốt và phải được định hướng cho các giải pháp hoàn thiện PLVTK ở Việt Nam.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay

3.2.1. Rà soát, hệ thống hoá thường xuyên và có chất lượng các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến thừa kế

Việc rà soát, hệ thồng hoá các quy định hiện hành về thừa kế ở Việt Nam là một công việc hết sức cần thiết và không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện PLVTK.

Một hệ thống pháp luật muốn phát huy tốt hiệu lực thì không thể không coi trọng đến công tác rà soát và hệ thống hoá các văn bản pháp luật hiện hành. Đây là một khâu có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần tích cực vào việc hình thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thống nhất và đồng bộ. Thông qua rà soát và hệ thống hoá cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới phát hiện những sai sót bất cập, mâu thuẫn và chồng chéo để làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật cho phù hợp [72, tr.87].

Thực tế trong những năm qua, công tác rà soát và hệ thống hoá các văn bản PLVTK ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhiều quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, lỗi thời đã được loại ra khỏi hệ thống pháp luật. PLVTK ở Việt Nam không ngừng được hoàn thiện và phát triển tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong viêc ghi nhận và bảo vệ quyền thừa kế của công dân. Tuy vậy, như đã trình bày ở trên, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Để cho PLVTK không tụt hậu mà luôn luôn theo kịp, phản ánh đúng các quan hệ xã hội thì nó phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Để có cơ sở sửa đổi, bổ sung các quy định PLVTK thì điều đầu tiên chúng ta tiến hành một cách thường xuyên và có chất lượng, việc rà soát và hệ thống hoá các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Thông qua đó các cơ quan ban hành pháp luật không những tìm thấy những hạn chế trong pháp luật thực định mà còn thấy cả những khoảng trống của pháp luật để tiếp tục khắc phục những điểm yếu của pháp luật hiện hành, xây dựng những quy phạm để điều chỉnh được đầy đủ các quan hệ về thừa kế đã và đang phát sinh và có thể dự báo được những quan hệ sẽ phát sinh trong thời gian tới.

Để có chuẩn mực trong việc rà soát, đánh giá, qua đó hoàn thiện các quy định về thừa kế, phải dựa trên quan điểm hiện nay của Đảng và nhà nước về xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, về quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, về hội nhập quốc tế. Về thực tiễn, thước đo để đánh giá sự đúng đắn của các quy phạm chính là nhu cầu cần được ghi nhận và bảo vệ quyền thừa kế và thực trạng áp dụng, thực hiện bộ phận pháp luật này trong cuộc sống. Khi rà soát pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền phải luôn bám sát các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật, đó là tính đồng bộ, phù hợp và tính khoa học trong kỹ thuật pháp lý. Chẳng hạn, để tính đồng bộ của pháp luật được đảm bảo cần tìm ra tất cả các quy phạm mâu thuẫn và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý như yêu cầu sửa lại điểm b, Khoản 4, Điều 10, Nghị định 81/2000/NĐ-CP theo hướng cho người nước ngoài được quyền thừa kế nhà ở để phù hợp với quy định tại nghị định 60/CP, 61/CP năm 1994 và BLDS 2005 để đảm bảo tính phù hợp của pháp luật, cần tìm ra và đề nghị bãi bỏ những quy định lạc hậu (ví dụ như quy định thừa kế quyền sử dụng đất, thừa kế thế vị con nuôi...). Để đảm bảo kỹ thuật pháp lý đạt trình độ cao, phải rà soát nhằm phát hiện và xử lý những văn bản quy định về thừa kế còn yếu kém về mặt kỹ thuật, sai sót về diễn đạt, ngôn ngữ sử dụng... để đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế thì cần phải có sự so sánh, đối chiếu với các cam kết, chuẩn mực trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc sẽ tham gia nhằm hài hoà các quy định pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế, đảm bảo cho việc xây dựng và thực hiện chương trình thể chế hoá gia nhập WTO. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thừa kế và yếu tố nước ngoài, cần sự rà soát lại các quy định thừa kế quyền sử dụng đất để phù hợp với các nguyên tắc của các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia...

Để công tác rà soát pháp luật được tiến hành một cách toàn diện, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều lực lượng với nhiều phương thức khác nhau trước hết, cần phải nâng cao năng lực của bộ tư pháp cơ quan chủ quản trong việc rà soát văn bản pháp luật. Cần xây dựng kế hoạch cụ thể, có chương trình rà soát cả ngắn hạn và dài hạn. Thu hút các nhà khoa học, chuyên gia những người hoạt động thực tiễn và nhân dân vào quá trình rà soát PLVTK.

3.2.2. Sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp của pháp luật về thừa kế

PLVTK đã thể chế hoá một cách khá đầy đủ và cụ thể đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về quyền con người, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho công dân thực hiện quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của mình. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân, vì dân, một số quy định PLVTK chưa rõ ràng, chưa thực sự phù hợp và rất khó áp dụng trên thực tế, cần phải hoàn thiện trong quá trình triển khai thực hiện cụ thể gồm những vấn đề sau:

* Về xác định thời điểm mở thừa kế:

Đây là vấn đề hết sức quan trọng không những liên quan đến hiệu lực di chúc nói riêng mà còn liên quan đến nhiều nội dung quan trọng khác của thừa kế nói chung, như xác định người thừa kế. Theo quy định tại K1 Điều 633 BLDS "thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết, trong trường hợp toà án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định tại K2. Điều 81 BLDS. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác định mốc thời gian là việc không đơn giản. Đối với trường hợp một người chết bình thường (chết sinh học). Thì thời điểm mở thừa kế tính theo phút được xác định rất đơn giản. Nhưng đối với trường hợp do biến cố (thiên tai, tai nạn máy bay, mất tích...) thì thời điểm mở thừa kế tính theo phút rất khó khăn, phức tạp. Một câu hỏi đặt ra, thời điểm mở thừa kế được tính theo đơn vị phút, giờ, hay ngày, pháp luật hiện hành vẫn chưa quy định.

Do vậy, để đảm bảo tính khách quan chính xác cũng như yêu cầu quan trọng khác theo quy định chung của pháp luật, theo chúng tôi nên quy định thời điểm chết được xác định theo đơn vị ngày. Điều đó sẽ tránh được hoài nghi, thắc mắc của nhân dân đối với việc xét xử của toà án trong những trường hợp cụ thể. Hơn nữa nếu xét về truyền thống pháp luật chúng ta thấy rằng các bộ dân luật của Việt Nam trước đây đều xác định thời điểm mở thừa kế "thời điểm chết của người để lại di sản, theo ngày" (Điều 311. Bộ dân luật Bắc Kỳ) về phong tục tập quán, từ xa xưa khi nói đến cái chết của một người, nhân dân ta thường lấy đơn vị ngày làm mốc xác định. Người ta thường xác định bố mẹ, ông bà mất vào ngày nào để từ đó xác định ngày làm giỗ, chạp để tưởng nhớ người đã khuất. Mặt khác, nhiều BLDS trên thế giới khi xác định thời điểm mở thừa kế đều xác định theo ngày. BLDS của Cộng hoà liên bang Nga năm 2002 quy định tại Điều 1114 như sau: “Ngày mở thừa kế là ngày người để lại di sản chết. Trong trường hợp bị tuyên bố chết thì ngày mở thừa kế sẽ là ngày quyết định của toà án về việc tuyên bố chết có hiệu lực pháp luật. Còn trong trường hợp có căn cứ để xác định ngày chết thì ngày mở thừa kế là ngày toà án đã xác định trong bản án. Những người chết trong cùng một ngày được coi là chết cùng thời điểm”.

Vì vậy, chúng tôi thấy cần phải quy định lại thời điểm mở thừa kế cho phù hợp với thực tế, với phong tục tập quán của dân tộc cũng như xu hướng hội nhập luật pháp quốc tế.

* Về việc từ chối nhận di sản:

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 642 BLDS năm 2005 thì “người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”. Tuy nhiên, việc từ chối nhận di sản của người thừa kế không dễ dàng vì phải trải qua một loạt các thủ tục: “phải thể hiện bằng văn bản, người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc UBND xã phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản” (Khoản 2, Điều 642 BLDS 2005). Quy định này không những làm phức tạp hoá vấn đề mà còn không phù hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, thực tiễn xét xử cho thấy thường là chỉ cần đương sự khai báo rõ ràng việc từ chối hưởng di sản mà không nhằm trốn tránh nghĩa vụ khác đều được toà án chấp nhận. Hơn nữa, theo quan niệm của người dân cũng như nguyên tắc tự định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự, việc từ chối hưởng di sản mà phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt thủ tục trên có phần thiếu thuyết phục. Do vậy, BLDS năm 2005 cần quy định lại thời hạn thủ tục từ chối nhận di sản, để đảm bảo việc từ chối nhận di sản thuộc quyền quyết định của người được nhận di sản. Đồng thời quy định hạn cuối cùng của sự từ chối nhận di sản là thời điểm chia di sản.

* Về nhường quyền hưởng di sản: BLDS Việt Nam chưa quy định về người nhường quyền thừa kế mà chỉ quy định người từ chối quyền hưởng di sản do người chết để lại. Trong thực tiễn, giải quyết tranh chấp về thừa kế, nhiều trường hợp người thừa kế nhường phần thừa kế của mình cho người thừa kế khác. Trong trường hợp này, toà án vẫn chưa chấp nhận cho họ được nhường kỷ phần bởi trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền luôn được tôn trọng và là nguyên tắc được quy định tại Điều 4 - BLDS năm 2005. Khi người thừa kế từ chối quyền hưởng thừa kế thì phần di sản này sẽ được phân chia theo pháp luật cho những người thừa kế khác. Còn khi người thừa kế nhường kỷ phần thừa kế của mình cho người thừa kế khác thì về mặt pháp lý, họ đã nhận phần di sản của mình và đã nhường cho người khác (với tư cách là tặng cho người khác). Để có cơ sở pháp luật, thiết nghĩ nên quy định cụ thể về vấn đề nhường quyền hưởng di sản thừa kế trong BLDS cụ thể như sau:

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 29/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí