Định Hướng Phát Triển Và Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Công Lập Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển


Minh) cho thấy quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm chưa được quy định và trao quyền một cách đầy đủ theo quy định của pháp luật, do đó các trường chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động; hiệu quả và hiệu lực quản lý không cao (chưa có cơ chế cho phép các trường tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên được chủ động xây dựng mức thu học phí để đảm bảo thu đủ bù chi, từ đó dẫn tới tình trạng không bình đẳng giũa các trường tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên với các trường công lập khác vẫn được NSNN hỗ trợ chi thường xuyên hàng năm). Có thể nói rằng, từ Nghị định 43/2006/NĐ-CP cho đến Nghị định 16/2015/NĐ-CP và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ, các trường ĐHCL phải chuyển đổi tự chủ tài chính theo cơ chế đảm bảo một phần kinh phí chi thường xuyên sang thành cơ chế đảm bảo hoàn toàn kinh phí chi thường xuyên (theo Nghị định mới gọi là Dịch vụ công). Tuy nhiên, trong những năm qua, việc triển khai tự chủ tài chính trong các trường ĐHCL theo nghị định nêu trên cũng còn rất chậm, làm ảnh hưởng đến việc đổi mới chế tài chính ở các cơ sở GDĐHCL.

Thứ ba: Chính sách tín dụng và học bổng cho sinh viên tuy đã có những đổi mới, nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập do khi xem xét tính liên kết giữa học phí, học bổng, cho vay, thì chưa đề cập đến việc cấp cho những sinh viên nghèo, diện được hưởng chính sách cho vay và chính sách học bổng chưa được mở rộng. Hiện nay, Việt Nam có quá ít loại hình học bổng, tập trung 2 dạng: miễn giảm học phí cho sinh viên nghèo, diện chính sách và học giỏi. Trong trường hợp được xét giảm học phí, yêu cầu để xem xét không đề cập tới tiêu chuẩn về thu nhập của gia đình. Vì vậy, ngay cả loại học bổng xã hội cũng không nhằm vào số sinh viên xuất thân từ những gia đình có thu nhập thấp. Bởi vậy, các trường ĐH có quyền quyết định rất quan trọng ở cả hai lĩnh vực: Xác định mức học phí; phân bổ nguồn tài chính hỗ trợ cho sinh viên, đòi hỏi có một hệ thống kết hợp được sự rõ ràng, công bằng và mục tiêu của việc hỗ trợ tài chính dựa trên cơ sở thu nhập gia đình.

Thứ tư: Một số chính sách của Nhà nước đối với các trường ĐH còn lúng túng khi thực hiện các định mức, tiêu chuẩn ngành do một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật lạc hậu, chậm sửa đổi như: định mức giờ giảng,


định mức biên chế theo lĩnh vực, theo ngành, nghề ... nên hạn chế tính tự chủ tài chính đối với các trường ĐH. Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính ở một số trường ĐH chưa thật sự hiệu quả nguyên nhân là do phương án chi tiền lương, tiền công cho cán bộ, giảng viên, cơ cấu chi không hợp lý do xây dựng một số định mức quá cao mà không cân đối các nguồn thu để thực hiện chi, kết quả là chưa làm cho cán bộ, giảng viên thấy được tác động tích cực của cơ chế mới (tăng thu nhập và hợp pháp hoá các khoản thu nhập cho cán bộ, viên chức) để họ quan tâm và thực hiện nghiêm túc.

Thứ năm: Hoạt động kiểm tra có sự tham gia của nhiều tổ chức nhưng chưa đảm bảo sự phối hợp mục tiêu kiểm soát làm ảnh hưởng đến công tác tài chính của các trường. Các biện pháp xử lý và chế tài kiểm soát theo khoản mục ngân sách quá cứng nhắc, phần nào hạn chế sự linh hoạt chỉ tiêu của trường ĐH. Việc kiểm tra, giám sát phân bổ và sử dụng ngân sách nếu xét về mặt đảm bảo chất lượng cho thấy ít chú trọng đến tính hiệu quả đầu tư. Các Bộ, ngành chức năng có liên quan chưa tích cực phổ biến hướng dẫn, chưa tích cực đôn đốc, kiểm tra thường xuyên các trường ĐHCL thực hiện theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Về quản lý nhà nước, mô hình và cơ cấu tổ chức của các cơ sở GDĐH còn nhiều điểm chưa rõ ràng làm ảnh hưởng đến quá trình hội nhập quốc tế của GDĐH Việt Nam; quy định về bộ máy quản lý, quản trị chồng chéo, giảm hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo điều hành, giảm mối liên kết và cộng hưởng sức mạnh giữa các trường trong đại học. Trong công tác quản lý đào tạo, nhiều quy định liên quan đến chương trình, hình thức, phương thức, thời gian đào tạo, khối lượng kiến thức… chưa tương thích với nhau nên hạn chế trong liên thông, trao đổi sinh viên và cơ hội liên kết đào tạo giữa Việt Nam với nước ngoài. Các cơ sở GDĐH chưa được tự chủ cao trong mở ngành đào tạo, liên kết, hợp tác quốc tế để phát triển các chương trình liên kết, cải tiến các chương trình đào tạo để tiệm cận chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu nhân lực của thị trường lao động trong và ngoài nước.

Thứ sáu: Việc triển khai và thực hiện không đồng bộ, nhất quán của các cơ quan tài chính, kho bạc thể hiện trong việc cấp phát ngân sách và kiểm soát chi. Các


trường ĐHCL có tâm lý e ngại khi thực hiện cơ chế mới, làm giảm hiệu quả đổi mới cơ chế quản lý tài chính. Nguyên nhân là do các văn bàn QLNN của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành có liên quan còn thiếu tính đồng bộ, lạc hậu, chưa cụ thể, không phù hợp với thực tiễn (về các định mức chi của Nhà nước đảm bảo quyền chủ động của các trường ĐHCL trong việc triển khai, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, thang bảng lương hành chính sự nghiệp, phân loại mức độ tự đảm bảo chi phí thường xuyên của các đơn vị sự nghiệp, về việc sử dụng tối thiểu 40% nguồn thu sự nghiệp để dành nguồn cải cách tiền lương).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Thứ bảy: Một số trường ĐH khi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn mang tính hình thức, chưa quy định cụ thể, rõ ràng một số nội dung chi, mức chi thiếu các biện pháp quản lý, tăng thu, tiết kiệm chi, vì vậy hạn chế tính chủ động và hiệu quả của quy chế chi tiêu nội bộ. Nguyên nhân là do một bộ phận cán bộ, viên chức, người lao động của các trường ĐHCL chưa nhận thức đầy đủ về nội dung, mục đích và yêu cầu về thực hiện giao quyền tự chủ đối với các trường ĐHCL, mang nặng tâm lý trông chờ bao cấp của Nhà nước, e ngại thay đổi cơ chế quản lý; trình độ tham mưu của một số bộ phận cán bộ làm công tác quản lý tài chính - kế toán của các trường ĐHCL còn hạn chế.


Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển - 17

Kết luận Chương 3

Nội dung của chương 3 là tập trung vào giới thiệu về hệ thống GDĐH, làm rõ thực trạng của cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL. Theo đó, tác giả phân chia hệ thống GDĐH của Việt Nam thành hai giai đoạn là trước và sau đổi mới. Đối với thực trạng của cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL, tác giả đã đưa ra những phân tích về thực trạng theo phân cấp quản lý NSNN, cơ chế phân bổ NSNN, cơ chế quản lý tài chính và cơ chế kiểm tra, kiểm soát và công khai đối với GDĐHCL ở Việt Nam trong thời gian qua. Tác giả cũng đưa ra những đánh giá về mặt được, những hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế đối với cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL ở nước ta. Theo đó, những kết quả đạt được quan trọng của việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL đó là những thay đổi chính sách quan trọng của Việt Nam đã giúp cải thiện đáng kể chất lượng quản lý tài chính. Tuy nhiên, cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐHCL vẫn còn một số hạn chế nhất định liên quan đến vấn đề chính sách và kiểm tra, giám sát. Nguyên nhân của những hạn chế này cũng được tác giả là rõ chủ yếu liên quan đến các vấn đề về giải pháp từ nhà nước, các chính sách, hướng dẫn các bộ Ban, Ngành và sự chủ động của các cơ sở ĐHCL.


Chương 4

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM TRONG

BỐI CẢNH HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN


4.1. Bối cảnh hội nhập và phát triển của Việt Nam

Với việc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã thực hiện hết những điều kiện cần và đủ của quá trình hội nhập kinh tế thế giới, bao gồm việc tự nguyện tham gia những tổ chức kinh tế - xã hội không có tính ràng buộc về pháp lý cho đến việc tham gia các tổ chức kinh tế toàn cầu với những luật lệ chặt chẽ. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho người dân trong việc tiếp xúc và nhiều lựa chọn hơn đối với các loại hình đào tạo trong và ngoài nước. Sự tham gia của quốc tế trong lĩnh vực giáo dục mang lại cho nền giáo dục trong nước nhiều cơ hội như có thêm nhiều giáo viên giỏi, nhiều chương trình tiên tiến tham gia vào hệ thống giáo dục, người học sẽ được hưởng nhiều điều kiện giáo dục thuận lợi như các nước tiên tiến trên thế giới với chi phí thấp… Đồng thời với đó là sự xuất hiện việc cung ứng giáo dục ngay tại Việt Nam, khiến cho việc mở rộng quy mô học sinh được học đại học và tăng tính thiết thực, tính hiệu quả trong giáo dục so với hiện nay [44]. Tính chất thị trường sẽ xuất hiện trong giáo dục và đi kèm với nó là sự cạnh tranh. Quá trình hội nhập và phát triển của đất nước sẽ mở cửa cho các trường đại học sẽ vào cạnh tranh với các trường của chúng ta trong việc thu hút người học, thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau về điều kiện học tập, chất lượng giáo dục mà hệ quả cuối cùng là chất lượng giáo dục sẽ được tăng lên

Báo cáo Chính trị Đại hội XIII đánh giá là “Hợp tác quốc tế về GD&ĐT tiếp tục được mở rộng”; “công tác đào tạo nhân lực ở nước ta đã có những thay đổi theo hướng tập trung nâng cao chất lượng; đào tạo gắn kết với nhu cầu lao động của địa phương, doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động; bước đầu áp dụng các phương pháp đào tạo của các tổ chức đào tạo nhân lực quốc tế. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ


khu vực và quốc tế như công nghệ thông tin, y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí...”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế” đã xác định: “Chủ động hội nhập quốc tế về GD&ĐT trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng XHCN, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, thành tựu KH&CN của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về GD&ĐT” [39]. Bối cảnh phát triển KTTT và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện đã và đang tiếp tục tác động đối với mọi hoạt động của quốc gia nói chung, đặc biệt là giáo dục ĐHCL ở Việt Nam, đưa đến những cơ hội, thách thức và đặt ra yêu cầu mới đối với giáo dục ĐH công lập tại Việt Nam trong thời gian tới.

4.2. Định hướng phát triển và đổi mới giáo dục đại học công lập trong bối cảnh hội nhập và phát triển

Đảng và Chính phủ luôn ưu tiên cho giáo dục, đào tạo và coi giáo dục, đào tạo là những quyết sách hàng đầu nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được nhu cầu xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế trên trường quốc tế. Luật Giáo dục ban hành năm 2005 (số 38/2005/QH11) [49], Luật giáo dục năm 2019 quy định rõ Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, trong đó có GDĐH và sau ĐH. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục và NSNN phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục.

+ Mục tiêu của GDĐH là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục bao gồm: NSNN; Học phí, lệ phí tuyển sinh và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.


+ Luật GDĐH ban hành năm 2012 (số 08/2012/QH13) [53] đã phân loại rõ các loại hình cơ sở GDĐH trong đó có cơ sở GDĐHCL thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất. Các cơ sở GDĐH (trong đó cơ sở GDĐHCL) được phân bố, sắp xếp với cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với quy mô dân số, vị trí địa lý, vùng lãnh thổ trên toàn quốc và từng địa phương, cho từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển KT - XH và quốc phòng, an ninh của đất nước; đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.

+ Chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH có nêu rõ: Tăng NSNN đầu tư cho GDĐH, đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở GDĐH chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành KT - XH then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; Nhà nước đặt hàng và đảm bảo kinh phí để thực hiện nghiệm vụ khoa học và công nghệ đối với cơ sở GDĐH có tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ; Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên đối với đối tượng được hưởng chính sách xã hội, đối tượng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn và đối tượng theo học các ngành đặc thù đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển KT - XH.

+ Cơ sở GDĐH có sử dụng NSNN được Nhà nước giao nhiệm vụ gắn với nguồn NSNN để thực hiện nhiệm vụ có trách nhiệm quản lý, sử dụng nguồn NSNN theo quy định của Luật NSNN.

+ Chính phủ quy định phương thức và tiêu chí phân bổ NSNN cho các cơ sở GDĐH, về tài chính của cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài trong hoạt động giáo dục.

Năm 2018, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật

34) đã được Quốc hội chính thức thông qua. Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Luật Giáo dục đại học (Nghị định 99).

Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH

+ Quan điểm chỉ đạo: Gắn kết chặt chẽ đổi mới GDĐH với chiến lược phát


triển KT - XH, củng cố quốc phòng - an ninh, nhu cầu nhân lực trình độ cao của đất nước và xu thế phát triển của khoa học và công nghệ; Đổi mới giáo dục phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ, lựa chọn khâu đột phá, lĩnh vực ưu tiên và cơ sở trọng điểm để tập trung nguồn lực tạo bước chuyển rõ rệt.

+ Mục tiêu cụ thể là hoàn thiện chính sách phát triển GDĐH theo hướng đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở GDĐH, sự quản lý của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với GDĐH.

+ Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới: Đổi mới chính sách tài chính nhằm tang hiệu quả đầu tư từ ngân sách và khai thác các nguồn đầu tư khác cho GDĐH. Nghiên cứu áp dụng quy trình phân bổ ngân sách dựa trên sự đánh giá của xã hội đối với cơ sở GDĐH.

Quyết định 711/2016 về phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 [67]:

+ Những thành tựu: Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực theo hướng đổi mới cơ chế tài chính của ngành giáo dục, NSNN đầu tư cho giáo dục tăng nhanh từ 15,3% năm 2001 lên 20% tổng chi ngân sách năm 2017.

+ Những bất cập và yếu kém: Quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự vụ và chồng chéo; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và chính sách giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa ngành giáo dục và các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa hợp lý. Đầu tư của nhà nước cho giáo dục chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu tiên, phần chi cho hoạt động chuyên môn thấp. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục chưa được quy định đầy đủ, sát thực.

+ Giải pháp phát triển giáo dục: trong số các giải pháp được nêu cụ thể thì có giải pháp Tăng nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính giáo dục, cụ thể: Đảm bảo tỷ lệ chi cho giáo dục trong tổng NSNN từ 20% trở lên, phù hợp với điều kiện KT - XH và quản lý sử dụng hiệu quả; NSNN đầu tư tập trung đào tạo nhân lực chất

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 03/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí