Nhóm Giải Pháp Về Đổi Mới Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Theo Hướng Tự Chủ Tài Chính Đối Với Các Trường Đại Học Công Lập


tốt nghiệp tạo ra rất ít giá trị xã hội lớn hơn so với lợi ích cá nhân. Nếu học phí bằng chi phí đơn vị trong các ngành như vậy sẽ dẫn đến việc đào tạo quá mức theo quan điểm tối ưu của xã hội.

Ba là, vì những mục tiêu chính sách, quan trọng là phải phân biệt rõ chi phí đơn vị thực tế và chi phí đơn vị hợp lý. Chi phí đơn vị thực tế là chi phí có thể thu được và đánh giá từ dữ liệu thực tế. Những chi phí này có xu hướng phản ánh các chính sách của Chính phủ từ trước đến nay về phân bổ tài chính công và chỉ tiêu tuyển sinh, qua đó thấy được tính ỳ của khu vực đại học công lập. Chi phí hợp lý là mức chi phí cần có để đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp có đầy đủ kỹ năng và kiến thức để lao động hiệu quả. Chẳng hạn, sinh viên khoa học và kỹ thuật nên sử dụng phần lớn thời gian học và nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm để nắm vững được những kỹ năng cần thiết cho công việc tương lai. Trong giai đoạn đầu, học phí nên được tăng tới mức bù đắp được chi thường xuyên thực tế vì nó phản ánh chính xác những gì mà sinh viên thực được nhận. Tuy nhiên, về lâu dài, để đạt được bước nhảy căn bản tới chi phí đơn vị hợp lý thì nên tăng học phí lên mức cân bằng giữa tổng học phí với mức chi thường xuyên hợp lý.

Bốn là, là các vấn đề thực tiễn liên quan đến mục tiêu chất lượng giáo dục và tốc độ cải cách. Rõ ràng rằng chi phí đơn vị, dù là chi phí thực tế hay hợp lý, đều phụ thuộc vào chất lượng giáo dục (theo mức độ thấp, vừa, cao). Do đó, chi phí đơn vị hợp lý cuối cùng chủ yếu phụ thuộc vào mức mục tiêu của chất lượng giảng dạy. Tỷ lệ tăng học phí mục tiêu phụ thuộc chủ yếu vào việc lựa chọn khung thời gian cải cách: nhanh (5 năm), trung bình ( 10 năm), chậm (15 năm). Việc lựa chọn một khung thời gian thích hợp cần phải tính đến các yếu tố kinh tế xã hội khác như điều kiện kinh tế vĩ mô trong nước và trên thế giới. Theo tình trạng thay đổi chậm của giáo dục đại học, Việt Nam chỉ nên hướng tới một nền đại học công lập ở chất lượng trung bình trong các kịch bản theo khung thời gian trung bình hoặc chậm.

- Chi phí đơn vị và phân bổ ngân sách nhà nước các trường đại học công lập Vấn đề chi phí đơn vị cung cấp những định hướng thực tiễn cho Chính phủ

trong việc phân bổ nguồn trợ cấp ngân sách cho các trường đại học công lập. Chính


sách về phân bổ tài chính công và học phí phải được thực hiện một cách phù hợp và có tổ chức. Nhìn chung, tổng ngân sách nhà nước cấp và học phí phải đáp ứng đủ chi phí để các trường đại học đào tạo sinh viên, đủ duy trì và xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị mới, đủ đảm bảo hoạt động nghiên cứu hiệu quả và đủ để trợ cấp cho sinh viên nghèo có cơ hội tiếp cận giảng đường. Cụ thể là việc thay thế khoản cấp kinh phí chi hoạt động thường xuyên bằng lộ trình tăng dần học phí không có nghĩa là tổng mức hỗ trợ ngân sách cho lĩnh vực giáo dục nên giảm theo. Ngược lại, tống ngân sách nhà nước phân bổ cho các trường đại học công lập nên tăng tới mức tương đương như các quốc gia mà Việt Nam muốn cạnh tranh.

Trong thời ngắn hạn, khi mà tổng học phí vẫn thấp hơn chi phí thường xuyên ở hầu hết các trường đại học, Chính phủ nên tiếp tục trợ cấp toàn bộ khoản chi cho đầu tư và chi cho nghiên cứu khoa học, trợ cấp một phần kinh phí chi thường xuyên cho các trường thích hợp, theo công thức;

Kinh phí chi thường xuyên được Chính phủ trợ cấp = Số sinh viên chính quy đại trà x (Chi phí đơn vị - học phí một sinh viên)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Trong đó, số “sinh viên chính quy đại trà quy đổi” là tổng số sinh viên được quy đổi sang loại hình sinh viên chính quy đại trà bằng cách sử dụng trong số và chi phí đơn vị có thể hoặc là chi phí thực tế hoặc là chi phí hợp lý chỉ dựa trên chi thường xuyên.

Về lâu dài, khi học phí có thể đảm bảo khoản chi thường xuyên ở các trường công lập, khoản tiết kiệm được từ phân bổ ngân sách cho chi thường xuyên của Chính phủ (cùng với các nguồn khác) vẫn cần được tiếp tục duy trì về số lượng, nhưng mục tiêu nên được chuyển sang hỗ trợ cho các sinh viên nghèo (thông qua các chính sách giảm học phí hoặc cho vay với lãi suất thấp), dành cho việc mua sắm tài liệu, trang thiết bị giảng dạy và xây dựng cơ sở hạ tầng mới và dành để khuyến khích hiệu quả nghiên cứu.

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển - 20

4.4.3. Nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính đối với các trường đại học công lập

Mục tiêu của nhóm giải pháp là nhằm đẩy mạnh việc triển khai tự chủ tài chính trong các trường ĐHCL, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự


nghiệp công; thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển GDĐH đồng thời đổi mới phương thức phân bổ và cách thức quản lý nguồn ngân sách dành cho GDĐH theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường ĐH.

Để đẩy mạnh việc triển khai tự chủ tài chính trong các trường ĐHCL cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, Nhà nước cần đổi mới cách thức quản lý tài chính ở các trường ĐH theo hướng xác định giá trị tài sản tại trường ĐH để giao cho đơn vị theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp; đơn vị được vay vốn các tổ chức tín dụng; huy động của các cán bộ viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng, và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp.

Thứ hai: Các trường ĐHCL cần xây dựng các quy chế, cơ chế chính để thực hiện tự chủ tài chính trong các trường ĐHCL một cách hiệu quả, đúng quy định.

Để thực hiện tự chủ tài chính trong các trường ĐHCL một cách hiệu quả, đúng quy định, các trường ĐH cần làm tốt một số công việc như: xây dựng chính sách thu hút đội ngũ giảng dạy chất lượng cao; được quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với điều kiện và hoạt động của nhà trường, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, để nâng cao uy tín và vị thế của các trường ĐH. Điều đó sẽ góp phần thu hút ngày càng nhiều sinh viên theo học và do đó các cơ sở đào tạo ĐH sẽ có điều kiện tăng nguồn thu.

Thứ ba, Nhà nước tiếp tục từng bước tăng quyền tự chủ tài chính cao hơn cho các trường ĐHCL đi cùng trao quyền tự chủ đại học.

Tăng cường tự chủ tài chính không có nghĩa là Nhà nước giảm hỗ trợ cho GDĐH mà được hiểu là phương thức giúp Nhà nước phân bổ ngân sách hỗ trợ cho GDĐH hiệu quả hơn thay vì cào bằng. Theo đó, các bước cần quan tâm là:

Bước 1: Nhà nước đẩy mạnh phê duyệt đề án tự chủ tài chính đối với một số trường ĐHCL có hiệu quả hoạt động tốt.

Theo phương án này, mức độ tự chủ là rất linh hoạt, các trường được toàn quyền đề xuất phù hợp với điều kiện thực tế của mình trên tất cả các phương diện có ảnh hưởng tới cân đối thu chi. Đổi lại, các trường sẽ có những cam kết cụ thể về trách nhiệm khi được tự chủ về tài chính như cam kết về chất lượng đào tạo, quy mô đào tạo


tối thiểu hoặc tối đa với từng chuyên ngành, cam kết về việc duy trì cơ sở vật chất cho sinh viên, cam kết về thu nhập của người lao động... Như vậy, với phương án này, Chính phủ sẽ chuyển từ vai trò quản lý, cấp phát sang vai trò giám sát.

Bước 2: Nhà nước từng bước giao quyền tự chủ tài chính cao hơn cho toàn khối GDĐH trên cơ sở phân tầng các trường ĐHCL.

Những trường thực hiện phương án này sẽ có quyền tự chủ tương đối cao, phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Theo giải pháp này, Nhà nước sẽ phân nhóm các trường, đồng thời quy định Khung tự chủ cho từng nhóm trường và cho phép các trường trong mỗi nhóm tự quyết định trong Khung đó.

Thứ tư, cụ thể hóa các văn bản hướng dẫn để thực hiện quyền tự chủ tài chính của các trường.

Hiện nay, tự chủ tài chính được lồng ghép trong rất nhiều văn bản pháp lý, từ Luật GDĐH, tới các Nghị định, thông tư hướng dẫn... Tuy nhiên, do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ các quan QLNN nên trong quá trình thực hiện một số cơ sở ĐHCL còn bị lúng túng giữa quyền cơ sở được tự quyết định và những quyền không được tự quyết định.

4.4.4. Nhóm giải pháp về chính sách học phí

Học phí, lệ phí là nguồn thu quan trọng của các trường ĐH. Đối với các trường ĐHCL, hiện nay, bên cạnh nguồn kinh phí được cấp từ NSNN còn rất hạn hẹp, nhà nước còn khống chế việc thu học phí.

Chính sách chia sẻ chi phí trong GDĐH thông qua chế độ học phí là cần thiết tuy nhiên khi xây dựng chính sách học phí phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố cả bên cung lẫn bên cầu GDĐH. Trong bối cảnh áp dụng chính sách chia sẻ chi phí, các trường ĐH cần phải đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.

Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng đang có xu hướng chuyển dịch chi phí GDĐH từ Chính phủ sang người học và gia đình họ. Học phí không ngừng tăng lên, mang lại nguồn thu ngày càng lớn cho các trường ĐH. Học phí tăng lên tạo điều kiện nâng cao hơn chất lượng đào tạo và không tạo thêm gánh nặng cho NSNN. Tuy nhiên, việc tăng học phí đang là rào cản làm giảm khả năng tiếp cận ĐH của các sinh viên, đặc biệt là các sinh viên thuộc các gia đình có thu


nhập trung bình và thấp. Chính vì vậy, khi xây dựng một chính sách học phí, cần nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân tố liên quan đến cả bên cung; (ví dụ: chi phí đào tạo/sinh viên) và bên cầu (ví dụ: khả năng thanh toán của sinh viên và gia đình họ).

Ở một khía cạnh khác, khi áp dụng chính sách học phí, hệ thống giáo dục cần phải đảm bảo nâng cao hơn nữa chất lượng GD&ĐT của mình. Chất lượng GD&ĐT cao sẽ có sức thuyết phục rất lớn lý do tăng học phí. Chất lượng của hệ thống GDĐH được thể hiện ở mức độ phù hợp của sản phẩm GDĐH với nhu cầu của xã hội, và của thị trường. Cụ thể hơn là cơ cấu ngành nghề đào tạo có phù hợp với nhu cầu về từng ngành nghề của xã hội hay không, trình độ, kỹ năng của các sinh viên sau khi ra trường có đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng lao động hay không. Cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất: Thực hiện dự báo nhu cầu về ngành nghề của xã hội đồng thời xác định chính xác chi phí đào tạo sinh viên của từng ngành nghề làm cơ sở xây dựng chính sách học phí, chính sách/công cụ hỗ trợ tài chính sinh viên.

Cho đến nay, Việt Nam chưa có những khảo sát đánh giá nhu cầu đào tạo trên phạm vi quốc gia làm căn cứ xây dựng các kế hoạch đào tạo. Cơ cấu đào tạo ĐH của Việt Nam đang có sự mất cân đối nghiêm trọng. Trong thời gian tới, nhà nước cần dựa vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội, thực hiện những khảo sát, đánh giá nhu cầu nguồn nhân lực về các mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề để làm căn cứ xây dựng kế hoạch và phân bổ chi tiêu đào tạo cho các khối ngành và các trường. Song song với đánh giá nhu cầu nguồn nhân lực, nhà nước công cần thực hiện các khảo sát đánh giá chi phí đào tạo/sinh viên ứng với mỗi nhóm ngành đào tạo. Từ đó có cơ sở thực tiễn để đánh giá điều chỉnh các chính sách tài chính liên quan của hệ thống GDĐH như chính sách phân bổ ngân sách cho các trường các khối ngành, chính sách học phí và hệ thống các chính sách công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên.

Thứ hai: Điều chỉnh học phí theo hướng tăng dần, gia tăng sự khác biệt trong mức học phí giữa các ngành, các lĩnh vực và tiếp tục áp dụng chính sách chia sẻ chi phí đào tạo, đồng thời với những biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động.


Học phí của các trường ĐH Việt Nam hiện đang ở mức rất thấp so với nhiều nước trên thế giới. Nhưng cũng có một thực tế là chất lượng các sản phẩm của GDĐH Việt Nam cũng đang ở mức thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sinh viên tốt nghiệp thiếu kiến thức thực tế và còn rất thụ động. Để có thể tăng học phí các trường phải nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo của mình, cho ra đời các chương trình chất lượng cao, học phí cao. Chỉ có nâng cao chất lượng đào tạo mới là cơ sở vững chắc đầy thuyết phục để tăng học phí vì khi đó người học cảm thấy những gì mình nhận được xứng đáng với đồng tiền mình bỏ ra.

Việt Nam có tỷ lệ GDP bình quân đầu người thấp trong khi nhu cầu học ĐH lại rất lớn. Chính sách học phí kép đang áp dụng là phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân trong khi không làm tăng thêm áp lực đối với NSNN.

Nhà nước cần điều chỉnh học phí theo hướng tăng dần, tuy nhiên việc nâng dần mặt bằng học phí không phải áp dụng một cách đồng đều cho tất cả các ngành, các lĩnh vực mà cần tính đến yếu tố lợi ích xã hội cũng như lợi ích cá nhân gắn với mỗi chuyên ngành đào tạo. Cụ thể là, việc điều chỉnh chính sách học phí phải đảm bảo điều chỉnh hành vi lựa chọn ngành học của sinh viên. Những ngành khó, ngành quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cần áp dụng mức học phí thấp hơn, đồng thời nguồn NSNN cấp cho ngành này phải đầy đủ hơn, để khuyến khích sinh viên theo học những ngành này. Các ngành mang lại lợi ích cá nhân cao, mức học phí phải cao hơn những ngành mang lợi ích cao hơn cho toàn xã hội. Có như vậy mới có thể khuyến khích học viên theo học các ngành mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, giảm sự mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề như hiện nay.

Bộ tài chính cần nghiên cứu, trình Chính phủ phê duyệt Đề án về đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ sự nghiệp công (trong đó có dịch vụ đào tạo trình độ ĐH và sau ĐH) theo hướng: Nhà nước chỉ quy định khung giá học phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, có vai trò thiết yếu đối với xã hội (như đào tạo ĐH hệ chính quy, đào tạo theo chương trình tiên tiến, đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ). Các đơn vị sự nghiệp công lập được phép tính đủ chi phí tiền lương, chi phí hoạt động thường xuyên, chi phí khấu hao tài sản cố định trong giá dịch vụ cung cấp. Đồng thời thực hiện chính


sách tạo điều kiện cho đối tượng người nghèo tiếp cận được các dịch vụ đào tạo trình độ ĐH và sau ĐH (như: mở rộng đối tượng được vay vốn để đi học), khuyến khích, cấp học bổng cho học sinh nghèo, học sinh học tập đạt kết quả tốt, khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân đóng góp xây dựng quỹ xã hội, quỹ từ thiện..

4.4.5. Nhóm giải pháp về chính sách tăng nguồn thu từ hoạt động dịch vụ

Nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường quan hệ hợp tác giữa trường ĐH với doanh nghiệp trong các lĩnh vực đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, nhằm tăng cường thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển GDĐH, cần thiết phải đề xuất các giải pháp để tăng thu từ các hoạt động này.

Các giải pháp sẽ tập trung theo hướng đổi mới cơ chế huy động nguồn lực tài chính đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hoá cao, tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động (các trường ĐH, trường CĐ…), nhằm góp phần đảm bảo chất lượng hoạt động của các đơn vị. Trên cơ sở đó, các cơ sở GDĐH chủ động thực hiện đa dạng hoá nguồn thu từ các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ, các hoạt động dịch vụ, sản xuất, kinh doanh.

Thứ nhất: xây dựng cơ chế thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và người sử dụng các sản phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ

Việc thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và người sử dụng các sản phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ là điểm hạn chế rất lớn của các trường ĐH của Việt Nam nói chung và các trường ĐHCL nói riêng. Hiện nay, các doanh nghiệp được trích quỹ phát triển khoa học - công nghệ trước khi nộp thuế thu nhập, cần có các quy định cụ thể về việc sử dụng quỹ này để đầu tư trở lại cho hoạt động NCKH và đào tạo của các trường ĐH. Nhà nước cần có quy định về việc doanh nghiệp phải có trách nhiệm đóng góp chi phí khí sử dụng các sản phẩm của trường ĐH (ví dụ nhân lực được đào tạo, các kết quả NCKH..,): hoặc quy định về các ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng nếu đầu tư cho GDĐH. Khi có các quy định cụ thể thì các trường ĐH mới có thể tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp dành cho


hoạt động này và sẽ tăng cường sự hợp tác giữa trường ĐH và doanh nghiệp.

Thứ hai: tăng cường huy động từ nguồn thu sự nghiệp khác.

Nghiên cứu xây dựng danh mục, hình thức và mức độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, áp dụng tiến bộ khoa học, nghiên cứu áp dụng công nghệ mới đối với các cơ sở đào tạo. Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực GDĐH; bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần của nhà đầu tư.

Trong bối cảnh quy mô đào tạo vượt quá khả năng cấp phát của nhà nước, nhà nước cần có chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư (ví dụ, khuyến khích thông qua hệ thống thuế) cho giáo dục từ các nguồn khác… trên cơ sở đó có thể tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo cũng như khả năng tiếp cận ĐH của người dân.

Khuyến khích các doanh nghiệp, Tổng Công ty, tập đoàn đầu tư thành lập cơ sở đào tạo hoặc liên kết với các trường ĐH nhằm cung cấp các dịch vụ đào tạo có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp, tập đoàn đó và của toàn xã hội.

4.4.6. Nhóm giải pháp tăng cường chính sách hỗ trợ tài chính đối với sinh viên nhằm nâng cao vị thế và uy tín của nhà trường

Trường ĐHCL có nhiệm vụ thực hiện công bằng xã hội, tăng khả năng tiếp cận GDĐH của các nhóm đối tượng có thu nhập thấp, đảm bảo sự phát triển đồng đều các ngành nghề trong đào tạo.

Hệ thống các chính sách, công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên phải đảm bảo tăng khả năng tiếp cận bậc ĐH của người dân đồng thời phải đảm bảo công bằng. Chính sách học phí công như hệ thống các chính sách, công cụ hỗ trợ tài chính cho sinh viên phải được xây dựng theo hướng tăng khả năng tiếp cận bậc ĐH của người dân.

Tăng số lượng sinh viên nhập học, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận ĐH phản ánh qua các tiêu chí: tăng; tỷ lệ sinh viên nhập học ĐH, giảm sự khác biệt trong tỷ lệ nhập học giữa các nhóm sinh viên từ các gia đình, vùng thu nhập thấp so

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2022