tự chủ hoàn toàn trong việc xác định mức thu học phí của chương trình. Khi đó, việc xác định doanh thu và chi phí cho các chương trình đào tạo chất lượng cao theo hợp đồng liên kết với nước ngoài của trường ĐH sẽ tuân theo các quy luật của cơ chế thị trường. Ở đó, trường ĐH sẽ quyết định bán hàng hoá (dịch vụ đào tạo chất lượng cao) với giá cả theo quy luật cung cầu của thị trường đảm bảo mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho nhà trường.
So sánh với mức thu học phí của một số chương trình đào tạo chất lượng cao do trường ĐH tổ chức liên kết với các trường ĐH quốc tế, với học phí của các chương trình đào tạo chất lượng cao được Nhà nước cấp ngân sách cho thấy mức thu học phí của các chương trình này cao hơn rất nhiều. Điều này dễ dàng được lý giải vì các trường sẽ xác định mức thu cao để bù đắp cho phần kinh phí không được NSNN cấp, nhằm trang trải đủ các chi phí đào tạo.
Tuy nhiên, việc xác định mức học phí cụ thể trong nhiều trường hợp không phụ thuộc vào việc xác định chi phí đào tạo thực tế. Ví dụ như học phí chương trình tài chính của Trường ĐH Ngoại thương là 20.000 USA/sinh viên/khoá cao hơn rất nhiều học phí chương trình Hoá học với của Trường ĐHKHTN chỉ là 4.500 USD sinh viên/ khoá (Chương trình hợp tác của ĐH Dressen, Cộng hoà Liên bang Đức), mặc dù chi phí đào tạo ngành Hoá học đòi hỏi cao hơn rất nhiều do cần có chi phí các thí nghiệm, hoá chất. Đối với các chương trình liên kết quốc tế, các trường được tự chủ hoàn toàn trong việc đề xuất mức thu học phí sao cho đạt nhiều lợi nhuận nhất nhưng lại chưa được yêu cầu phải thực hiện các cam kết và trách nhiệm giải trình đối với xã hội và phụ huynh về chất lượng chương trình cũng như hoạt động thu, chi tài chính.
Như vậy, trong cùng một trường ĐH, cùng với hoạt động để đạt mục tiêu và tạo ra sản phẩm đầu ra của chương trình đào tạo chất lượng cao nhưng rõ ràng cơ chế thu, huy động học phí giữa chương trình đào tạo chất lượng cao được nhà nước cấp ngân sách và không được cấp ngân sách còn nhiều điểm khác nhau, về mức độ tự chủ và cơ chế kiểm tra, giám sát Quyết định mức thu học phí của các trường dựa trên yếu tố mang lại nhiều nguồn thu và lợi nhuận cho nhà trường đã có những tác
động không tốt tới hiệu quả về mặt xã hội. Tuy nhiên một yếu tố quyết định đối với mức học phí của các loại loại hình chương trình là khả năng thu hút nguồn lực xã hội của ngành đào tạo. Rõ ràng cơ chế quản lý học phí hiện nay đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao cần được nghiên cứu, hoàn thiện đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả và công bằng trong xã hội.
Ngoài nguồn thu từ học phí, các trường ĐHCL còn huy động nguồn tài chính từ hoạt động NCKH, từ hợp tác quốc tế hoặc đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân.
Đối với nguồn thu từ hoạt động khoa học - công nghệ, có thể thấy ở hầu hết các trường ĐH nguồn thu này còn rất khiêm tốn. Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học được hình thành từ 2 nguồn chính. Một là, từ kinh phí nghiên cứu khoa học của Chính phủ cấp cho trường ĐH thực hiện các đề tài, dự án, đề án. Hai là, kinh phí do các trường thu hút, huy động qua việc chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, bán sản phẩm, tư vấn khoa học - công nghệ. Nhìn chung nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học từ NSNN cấp cho các trường ĐHCL hàng năm không nhiều và phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của cá nhân các nhà khoa học của nhà trường. Nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ cao hơn ở các trường thuộc khối kỹ thuật công nghệ, nghiên cứu khoa học cơ bản được quan tâm và phát triển mạnh.
Đối với cơ chế thu hút nguồn thu từ các doanh nghiệp và người sử dụng các sản phẩm đào tạo và khoa học - công nghệ là điểm hạn chế rất lớn của các trường ĐH Việt Nam nói chung và các trường ĐHCL nói riêng. Hiện nay, các doanh nghiệp được trích quỹ phát triển khoa học - công nghệ trước khi nộp thuế thu nhập nhưng việc sử dụng quỹ này chưa có cơ chế cụ thể nên việc đầu tư trở lại cho hoạt động NCKH và đào tạo của các trường ĐH là không đáng kể. Trong khi đó, Nhà nước chưa có quy định về việc doanh nghiệp phải có trách nhiệm đóng góp chi phí khi sử dụng các sản phẩm của trường ĐH (ví dụ nhân lực được đào tạo, các kết quả NCKH…); hoặc quy định về các ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng nếu đầu tư cho GDĐH. Vì vậy, các trường ĐH rất khó tiếp cận nguồn tài chính của các doanh nghiệp đành cho hoạt động này.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Bổ Nsnn Cho Đối Với Các Trường Thuộc Bộ Gd&đt Quản Lý
- Thực Trạng Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Các Nguồn Tài Chính Huy Động Ngoài Ngân Sách Nhà Nước Đối Với Các Trường Đại Học Công Lập
- Kết Quả Thực Hiện Cho Vay Hssv Có Hckk Của Nhcsxh Giai Đoạn 2010 - 2017
- Vai Trò Của Gdđh Trong Hệ Thống Giáo Dục Việt Nam
- Đánh Giá Chung Về Cơ Chế Quản Lý Tài Chính Của Nhà Nước Đối Với Giáo Dục Đại Học Công Lập Của Việt Nam Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển .
- Định Hướng Phát Triển Và Đổi Mới Giáo Dục Đại Học Công Lập Trong Bối Cảnh Hội Nhập Và Phát Triển
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
3.2.3.4. Thực trạng thực thi chính sách mở rộng nguồn thu khác
Theo quy định của nhà nước, các trường ĐH được phép thu nhận các nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng theo quy định của pháp luật; và các nguồn khác, như: nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng vốn huy động của cán bộ, viên chức trong đơn vị; nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ làm thay đổi cơ bản cơ chế huy động nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường ĐHCL và giảm mức lệ thuộc vào NSNN cấp. Đây là lần đầu tiên các trường ĐHCL được phép vay tín dụng ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng và nâng cao dịch vụ đào tạo.
Ngoài ra, các trường ĐHCL được chủ động quyết định mức phí dịch vụ đối với các dịch vụ không thiết yếu (những dịch vụ không nằm trong danh mục do Nhà nước quy định).
Đối với các nguồn thu từ các hoạt động khác của trường ĐH hoặc đóng góp của các tổ chức, cá nhân đa số mang tính nhỏ lẻ, không thường xuyên và phụ thuộc nhiều vào quan hệ, danh tiếng cá nhân. Các trường ĐH cũng chưa chú ý đến cơ chế khai thác sự ủng hộ rất lớn từ đội ngũ cựu sinh viên đã thành đạt của nhà trường. Vì vậy, các đóng góp tài chính từ đây cho các trường ĐHCL là không đáng kể.
Có thể thấy, bản thân, các trường ĐHCL mới chỉ dành sự quan tâm đến chính sách học phí. Các trường chưa chú động đề xuất các phương thức huy động linh hoạt, hiệu quả đủ sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư thấy được lợi ích khi đầu tư cho giáo dục và NCKH. Đồng thời chưa có cơ chế khuyến khích, ưu đãi hoặc tôn vinh đối với các cá nhân, doanh nghiệp mang lại nguồn tài chính cho trường. Tỷ trọng nguồn vốn ngoài NSNN so với tổng nhu cầu chi ngày càng tăng chứng tỏ nguồn vốn này ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của các trường ĐHCL. Điều này đòi hỏi việc đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường, huy động nguồn vốn ngoài NSNN trong các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế và định hướng đổi mới cơ chế tài chính đối với các cơ sở giáo ĐHCL của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Hộp 2: Vấn đề chi ngân sách thường xuyên với kết quả hoạt động tại các trường
Theo chuyên gia bộ tài chính cho rằng việc tái cơ cấu các kênh tài trợ thông qua việc thiết lập một tổ chức tài trợ hợp nhất theo Nghị định 60/2021/NĐ-CP, sẽ từng bước tạo lập tính tự chủ tài chính cho các trường và tiến tới tự chủ hoàn toàn tài chính tại các trường.
GS.TS. Nguyễn Khắc Minh (Đại học Thăng Long) chỉ ra kinh nghiệm quốc tế trong việc tự chủ tài chính và quyết định học phí của cơ sở đào tạo. Học viên chấp nhận mức học phí cao để có được dịch vụ giáo dục cao, chất lượng giáo dục đảm bảo. Sự phân tầng trong giáo dục giúp cho học viên có nhiều lựa chọn hơn và đưa ra những quyết định chính xác hơn về nhu cầu đào tạo. Tại Việt Nam, việc điều chỉnh học phí trong các trường đại học còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc điều chỉnh gia tăng học phí nhưng chất lượng đào tạo lại không tăng.
TS. Nguyễn Thạc Hoát (Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư) cho biết mức học phí đã tăng trong những năm gần đây, điều này chủ yếu là do việc sử dụng học phí tiến tới bù đắp các chi phí khác. Tuy nhiên, sự tăng lên học phí cũng là một yếu tố gây ra những khó khăn nhất định đối với học viên. Do đó, cần phải hoàn thiện lộ trình tăng học phí và mức tăng phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ngoài ra, việc điều chỉnh học phí phải cần gắn với việc đảm bảo khả năng tiếp cận giáo dục đại học đối với các đối tượng học sinh thuộc đối tượng chính sách, học sinh tài năng, học sinh thuộc các hộ gia đình có thu nhập thấp, gia đình nghèo.
Chuyên gia Bộ GD&ĐT cho rằng cần phải gắn cấp ngân sách chi thường xuyên với kết quả hoạt động và hiệu quả hoạt động đối với các đại học công lập. Theo đó, NSNN hạn hẹp, nếu các trường vẫn còn tư duy là tài trợ cho GDĐH chủ yếu từ NSNN thì GDĐH sẽ không phát triển và sẽ tụt hậu. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là nguồn nhân lực không được đảm bảo. Các trường sẽ không đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế.
3.2.4. Thực trạng cơ chế kiểm tra, kiểm soát và công khai tài chính
3.2.4.1. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước
Kiểm soát tài chính được Nhà nước thực hiện thông qua các hoạt động như kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán chi ngân sách và xử lý các vi phạm kỷ luật tài chính. Nó cũng bao gồm việc quy định nội dung cụ thể về biện pháp tiết kiệm chi ngân sách, chống bao cấp, chống chi tiêu lãng phí và tham nhũng. Trên thực tế, việc kiểm
soát được thực hiện qua các hình thức: i) thẩm định quyết toán của cơ quan chủ quản; ii) kiểm soát chi ở kho bạc; iii) kiểm toán Nhà nước; iv) thanh tra tài chính; v) quản lý thuế và iv) các hình thức khác như kiểm toán độc lập hay tự kiểm tra tài chính kế toán…
Kiểm toán cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý tài chính và ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Kiểm toán luôn đi liền với hoạt động kế toán. Nếu kế toán làm nhiệm vụ tổ chức thu thập, xử lý và cung cấp những thông tin, thì kiểm toán chính là sự xác nhận tính chuẩn xác của thông tin. Qua đó hoàn thiện các quá trình quản lý, hoàn thiện quá trình tổ chức thông tin phục vụ có hiệu quả cho các đối tượng xử lý thông tin kế toán.
Công tác kiểm toán trong ĐHCL hiện nay do Kiểm toán Nhà nước thực hiện là chủ yếu, hoạt động kiểm toán đối với Nhà trường được thực hiện theo định kỳ.
Cụ thể, các bộ ngành và ĐH quốc gia trực tiếp kiểm tra và thẩm định phê duyệt quyết toán hàng năm đối với nguồn kinh phí phân bổ chi thường xuyên cho các trường. Quản lý chi ngân sách còn chịu kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước thông qua quy chế chi tiêu nội bộ của các trường. Đặc biệt, Nhà nước đã quy định thực hiện công khai tài chính, công khai phân bổ và sử dụng dự toán ngân sách hàng năm theo Quyết định 192/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng. Nó không chỉ giúp các trường tự kiểm tra, thanh tra và kiểm toán nội bộ mà còn thực hiện tốt quy chế dân chủ trong trường học, tăng cường chức trách hiệu trưởng và các bộ phận quản lý tài chính công. Gần đây, thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ, các trường còn phải báo cáo cơ quan chủ quản kết quả thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. Để kiểm soát chi tiêu, các khoản mục, chế độ, chính sách và định mức được quy định thực hiện một chi tiết. Việc đổi mới các hình thức kiểm toán theo hướng tăng kỷ cương tài chính cho thấy tác dụng tích cực.
3.2.4.2. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Thực hiện việc giám sát hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm kiểm tra việc thực hiện công tác thu - chi tài chính đảm bảo đúng chế độ và tiến độ giải ngân, thực hiện công khai tài chính … Hệ thống sổ sách kế toán thống nhất theo quy định
của Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành, tổ chức hạch toán rõ ràng, đầy đủ tất cả các khoản thu, chi vào hệ thống sổ sách kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành, tổ chức hạch toán rõ ràng, đầy đủ tất cả các khoản thu, chi vào hệ thống sổ sách kế toán hoạt động chung của đơn vị. Thông qua công tác hạch toán kế toán, các trường có thể kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu chi tài chính, tình hình thu nộp, thanh toán, kiểm tra việc giữ gìn, sử dụng tài sản, sử dụng kinh phí, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những vướng mắc, sai phạm trong chế độ chính sách, thể lệ tài chính của Nhà nước và của Nhà trường.
Các khâu trong quy trình chi tiêu được quản lý chặt chẽ như:
- Chi tiền lương, tiền công phải có bảng chấm công và bảng thanh toán tiền lương, riêng tiền lương, tiền công do hệ số điều chỉnh tăng thêm có tính đến điểm phạt khi không hoàn thành nhiệm vụ.
- Các khoản chi mua ngoài phải có hoá đơn tài chính hợp pháp theo quy định hiện hành và phù hợp với giá cả thị trường tại thời điểm mua.
- Hoạt động kiểm soát được thực hiện thường xuyên thông qua cơ chế tự kiểm của nhân viên Phòng Kế hoạch - Tài chính, kế toán trưởng, giám hiệu nhà trường. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động tài chính của trường còn được tiến hành định kỳ hoặc bất thường của Trung tâm Đảm bảo chất lượng, chuyên gia đánh giá nội bộ và Ban Thanh tra nhân dân nhà trường….
3.2.4.3. Hoạt động công khai tài chính
Công tác ĐHCL công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng ĐT thực tế, công khai bảo đảm chất lượng giáo dục và công khai thu chi tài chính đối với mức thu học phí và các khoản thu khác cho từng năm học và dự kiến cả khoá học; các nguồn thu từ các hợp đồng ĐT, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất, tư vấn và các nguồn thu hợp pháp khác; chính sách học bổng và kết quả thực hiện trong từng năm học. Các nội dung công khai được thể hiện dưới dạng các văn bản như: Kế hoạch tài chính hàng năm, trong đó có chi tiết các khoản thu, các khoản chi có quan hệ với NSNN; Quyết toán tài chính năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quyết định phê duyệt đề án, dự án, nhiệm vụ chuyên môn hoặc đề tài
nghiên cứu khoa học đã hoàn thành của người có thẩm quyền; Quyết định phê duyệt danh mục và dự toán mua sắm tài sản; Quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán của nhiệm vụ sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ tài sản; Quyết định phê duyệt kế hoạch đấu thầu, thời gian thực hiện gói thầu; Quyết định công bố mức học phí trong năm học…
Mặc dù có quy định các trường ĐH phải thực hiện công khai bằng văn bản, in thành tài liệu gửi đến đối tượng được công khai; trên trang thông tin điện tử của trượng, đảm bảo tính đầy đủ và cập nhật khi có thông tin mới hoặc thay đổi để thông tin luôn chính xác và kịp thời. Tuy nhiên, việc công khai này là rất hạn chế, hơn nữa cũng rất ít trường phổ biến và phát tài liệu cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh trước và sau khi tuyển sinh, hoặc phát tài liệu cho sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh có nhu cầu nội dung công khai vào thời điểm đầu năm học mới.
Hộp 3: Nên xây dựng một chuẩn mực tiêu chí để thanh tra, kiểm tra và giám sát các cơ sở đào tạo
Chuyên gia Bộ Tài chính nêu nên sự cần thiết học tập kinh nghiệm quốc tế để đổi mới mô hình cân đối tài chính GDĐH ở Việt Nam là do sự phức tạp của hệ thống giáo dục dẫn đến những hạn chế nhất định trong cân đối tài chính. Theo ông, cần phải có những nghiên cứu chi tiết, cụ thể và thực tiễn để có thể đưa ra những giải pháp hợp lý về phân bổ NSNN để vận hành các cơ sở giáo dục, đào tạo một cách trơn tru.
Chuyên gia Bộ GD&ĐT cho rằng cân phải ban hành những chuẩn mực về tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, tiếp cận với chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế theo tinh thần hội nhập, các cơ sở đại học cần cam kết và thực hiện theo chuẩn chất lượng đã được quy định. Bên cạnh tổ chức kiểm định của nhà nước, cần có những tổ chức kiểm định độc lập để có những đánh giá khách quan, minh bạch về chất lượng đào tạo.
Bên cạnh đó, cần phải nâng cao, hoàn thiện giải pháp tinh giản biên chế và đổi mới công tác quản lý cán bộ của các nhà trường; tăng cường chính sách đãi ngộ với nhà giáo. Tạo môi trường kinh tế - tài chính minh bạch, lành mạnh nhằm tăng cường giám sát tài chính đối với đơn vị sử dụng ngân sách.
TS. Nguyễn Thạc Hoát (Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch & Đầu tư) đưa ra nhận định hầu hết các trường đều có những vướng mắc về cơ sở, phương thức chi NSNN và nguồn thu của cơ sở đào tạo. Với áp lực tăng thu do sự sụt giảm trợ cấp từ ngân sách sẽ dẫn đến tình trạng có một số trường đại học công lập thu vượt, thu sai quy định, lạm thu các khoản thu ngoài quy định. Do vậy, các cở đào tạo cần chủ động hơn trong phương thức thu chi, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và quản trị tài chính. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cần phải chủ động trong việc sắp xếp, bố trí bộ máy và nhân sự để sử dụng nguồn lực tài chính một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, các trường đại học công lập đã có quyền tự chủ tài chính trong việc sử dụng nguồn NSNN, được tự chủ trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thu, phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, tài sản hiện có, đội ngũ giảng viên để mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội. Đầy là những bước đầu quan trọng của nước ta trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở đào tạo.
GS.TS Nguyễn Khắc Minh (Đại học Thăng Long) cho rằng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và vật chất ở Việt Nam còn hạn chế và khá khiêm tốn. Do đó, việc nâng cao cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và máy móc hỗ trợ giảng dạy cũng là điều cần phải quan tâm. Bởi vì trong bối cảnh hội nhập và phát triển, cách mạng công nghiệp 4.0 thì nhu cầu về chất lượng nguồn nhân lực cao hơn, các hạ tầng thiết bị đi kèm cũng phải tương ứng và đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo cần phải chủ động nâng cao năng lực của cán bộ, giảng viên, đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Do đó, cần phải có những tiêu chí, chuẩn mực để đánh giá cho các cơ sở đào tạo.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học công lập tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển.
3.3.1. Bối cảnh hội nhập và phát triển
Nước ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, giai đoạn 2013- 2016, đã có 68 thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết. Giai đoạn 2016 - 2020, Bộ GD-ĐT đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước