Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn sử dụng cho mỗi hình thức đem lại bao nhiêu thu nhập. Trên cơ sở đó so sánh tỷ suất sinh lời vốn sử dụng cho mỗi hoạt động đó có thể đánh giá việc chuyển dịch cơ cấu từ cho vay sang đầu tư hoặc ngược lại từ hoạt động đầu tư sang cho vay có hiệu quả hay không để từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp.
1.2.6. Nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.6.1. Nhóm nhân tố khách quan
* Định hướng phát triển kinh tế trong từng thời kỳ và chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trong quá trình xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh, thiết kế danh mục đầu tư và cho vay, các ngân hàng phải hướng tới những ngành kinh tế chủ lực, mũi nhọn, những ngành kinh tế được Chính phủ/chính quyền địa phương ưu tiên tập trung phát triển trong từng thời kỳ nhất định. Khi cơ cấu danh mục đầu tư, cho vay được thiết kế phù hợp với môi trường kinh tế sẽ đảm bảo hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra và tạo điều kiện để duy trì lợi nhuận một cách bền vững cho NHTM.
Nếu nền kinh tế có đa dạng các thành phần kinh tế, thuộc các loại hình kinh tế khác nhau phát triển năng động, đó cũng là cơ hội để NHTM đa dạng hóa hình thức, sản phẩm, loại hình tài trợ đây là cơ sở để ngân hàng phân tán rủi ro. Ngược lại, nếu nền kinh tế quốc gia hoặc địa phương có tính tập trung, chủ yếu dựa vào một vài ngành sản xuất kinh doanh đặc thù nào đó như nông nghiệp, xuất khẩu,... thì rất khó cho ngân hàng xây dựng được một cơ cấu cho vay có tính đa dạng, mà thông thường sẽ là tập trung. Ngoài ra, chính sách điều tiết vĩ mô của NHTW và Chính phủ cũng tác động lớn đến sự thay đổi cơ cấu sử dụng vốn của NHTM. Chẳng hạn, nếu NHTW thắt chặt tiền tệ, làm cho tỷ trọng tiền dự trữ của NHTM tăng lên, kéo theo hạn chế khả năng mở rộng cho vay và đầu tư của ngân hàng và ngược lại
* Sự phát triển của nền kinh tế xã hội và nhu cầu thị trường
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhu cầu thị trường rất đa
dạng và luôn có xu hướng thay đổi. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM cũng có sự gắn kết chặt chẽ với biến động của nền kinh tế và điều này đem lại cả thuận lợi cũng như khó khăn. Bởi vì NHTM là trung gian tài chính, các sản phẩm cung cấp phải phù hợp với nhu cầu và diễn biến của thị trường. Chính vì lẽ đó, khi một ngành hoặc một lĩnh vực nào đó trong nền kinh tế tăng trưởng “nóng” các ngân hàng rất dễ bị cuốn hút theo sự phát triển của một số ngành kinh tế thời thượng, cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng sẽ có thể đi lệch hướng ban đầu, chỉ tập trung vào một số ít ngành đang phát triển mạnh. Trong ngắn hạn điều này có thể đem lại lợi nhuận cho ngân hàng tức thời, tuy nhiên khi các ngành kinh tế nhạy cảm từ “nóng” trở nên “nguội lạnh” thì rủi ro tiềm ẩn mới thực sự bộc lộ và hậu quả tổn thất sẽ khôn lường.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn, đòi hỏi các ngân hàng phải nắm bắt kịp thời những biến động của nền kinh tế, có những quyết sách phù hợp với sự thay đổi đang diễn ra, đáp ứng nhiều hơn các nhu cầu hiện tại của khách hàng mở rộng đối tượng khách hàng, phù hợp với nhu cầu của thị trường đảm bảo lợi nhuận và tổn thất luôn nằm trong khả năng kiểm soát của ngân hàng.
* Sự phát triển của thị trường tài chính
Đây là điều kiện quan trọng giúp NHTM thực hiện nghiệp vụ một cách linh hoạt, kịp thời trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính cũng như điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình. Nếu TTTC phát triển, các doanh nghiệp sẽ có nhiều kênh để huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh, giảm sự lệ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng, khi đó tỷ trọng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng sẽ có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu TTTC chậm phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu tài trợ vốn chủ yếu thông qua kênh tín dụng do đó cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng sẽ tập trung chủ yếu vào hoạt động cho vay. Khi TTTC phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của các công cụ giúp ngân hàng có thể ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh, từ đó có thể linh hoạt hơn điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn theo mục tiêu và ngược lại nếu TTTC kém phát triển sẽ khiến các ngân hàng trở nên thụ động, không linh hoạt để thay đổi cơ cấu sử dụng vốn, lâu dần trở nên bảo thủ, khó khăn trong quá trình hội nhập.
* Hành lang pháp lý và yêu cầu giám sát của cơ quản quản lý ngân hàng
Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn phải đặt trong khuôn khổ luật pháp của một quốc gia nhất định. Để đảm bảo an toàn cho hệ thống, NHTW đưa ra những quy định, các giới hạn nhằm đảm bảo an toàn hoạt động. Liên quan đến hoạt động sử dụng vốn, đó là các giới hạn về an toàn vốn, các quy định về dự trữ đáp ứng thanh khoản, các giới hạn và tỷ lệ an toàn trong hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư,... Sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước vừa có ý nghĩa định hướng cho các NHTM tuân theo các chuẩn mực chung, vừa có tác dụng cảnh báo từ xa. Khi nền kinh tế có những biến đổi, ở góc độ kinh doanh các ngân hàng rất dễ chạy theo lợi nhuận trước mắt, không lường hết hậu quả lâu dài sau này. Công tác giám sát, cảnh báo của cơ quan quản lý ngân hàng là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự an toàn không chỉ cho từng NHTM mà còn cho cả hệ thống.
* Thu nhập đem lại từ các hoạt động đầu tư vốn của NHTM
Nếu hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống thì trong điều kiện TTTC phát triển, các NHTM có xu hướng chuyển dịch vốn để đầu tư tài chính. Điều đó xuất phát từ những lợi ích của hoạt động này: phân tán rủi ro, tăng tính thanh khoản cho tài sản. Tuy nhiên, thu nhập từ hoạt động này đem lại vẫn là mục tiêu được NHTM quan tâm hàng đầu. Thu nhập đó có thể từ lãi/cổ tức nhận được khi nắm giữ chứng khoán, lãi nhận được khi chứng khoán Nợ đến hạn; hoặc đó có thể thu nhập từ chênh lệch giữa giá bán với giá mua chứng khoán. Mọi quyết định của NHTM liên quan đến việc mua hay bán chứng khoán đều phát sinh từ yếu tố thu nhập. Trong điều kiện thu nhập đem lại từ hoạt động đầu tư tài chính và các hình thức đầu tư khác tăng lên thì tỷ trọng vốn sử dụng cho hoạt động này sẽ có xu hướng tăng lên và ngược lại.
1.2.6.2. Nhóm nhân tố chủ quan
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Cơ sở nền tảng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng đó chính là mục tiêu và chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng là một chương trình tổng thể và dài hạn nhằm tạo ra một bước phát triển nhất định của NHTM, đồng thời là sự cam kết trước về các
mục tiêu cơ bản, toàn diện mà một ngân hàng phải đạt được và sự phân bổ các nguồn lực quan trọng để đạt được các mục tiêu đó trong môi trường hoạt động trong tương lai. Trên cơ sở những điều kiện khách quan, những nguồn lực nội tại, xây dựng chiến lược kinh doanh tổng thể của ngân hàng mình, tiếp đó là chiến lược đối với từng hoạt động, từng mảng nghiệp vụ. Trong đó công bố rõ những mục tiêu hướng tới và cụ thể hóa bằng những chỉ tiêu cụ thể. Đó là cơ sở để xây dựng ban hành chính sách thực thi và tổ chức thực hiện. Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng đạt được kết quả tích cực nếu dựa trên cơ sở của chiến lược kinh doanh đúng hướng và được triển khai một cách thành công và ngược lại.
* Quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng
Quy mô và cơ cấu NVHĐ của NHTM quyết định trực tiếp đến qui mô, cơ cấu sử dụng vốn của NHTM, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực tài chính của NHTM đó là chỉ tiêu phản ánh qui mô NVCSH. Một NHTM có quy mô NVCSH lớn thì khả năng mở rộng vốn đầu tư cho cách hoạt động phi truyền thống sẽ cao.
Tuy nhiên do đặc thù hoạt động, nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của NHTM là nguồn huy động từ các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy, việc đưa ra quyết định về cơ cấu sử dụng vốn lại phụ thuộc trực tiếp vào cơ cấu NVHĐ. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM luôn phải đảm bảo sự phù hợp về kỳ hạn, về loại tiền, về sự nhạy cảm với lãi suất với NVHĐ nhằm làm giảm RRTK và RRLS cho ngân hàng. Sự chênh lệch về kỳ hạn có thể gây ra thiếu hụt/dư thừa dự trữ đối với ngân hàng từ đó có thể dẫn tới RRTK/giảm khả năng sinh lời. Mặt khác, khi lãi suất thị trường biến động, ngân hàng cũng sẽ đối diện với RRLS. Chính vì vậy, ngân hàng cũng thường xuyên phải điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn cho phù hợp với nguồn vốn tạo lập, đây là quá trình thường xuyên đồng thời là yêu cầu và là nội dung của hoạt động quản trị TSC-TSN của ngân hàng.
* Trình độ công nghệ ngân hàng
Công nghệ thông tin ngày càng có vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Công nghệ nâng cao
tính cạnh tranh cho ngân hàng cập nhật, thu thập và xử lý, phân tích thông tin nhanh hơn, chính xác hơn góp phần quan trọng trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản lý của ngân hàng. Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng giúp đơn giản hóa các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Qua đó, ngân hàng có thể áp dụng những mô hình đo lường rủi ro, mô hình cảnh báo sớm, kiểm tra thử đối với cơ cấu tài sản,... Công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô, cơ cấu cho vay, đầu tư của ngân hàng. Khi năng lực công nghệ của ngân hàng còn yếu và mang tính thủ công cao thì việc mở rộng cho vay là rất khó khăn và gặp nhiều rủi ro do ngân hàng không đảm bảo được việc kiểm soát một khối lượng thông tin khổng lồ hoặc muốn kiểm soát thì chi phí sẽ rất cao.
* Hệ thống thông tin quản lý.
Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn có hiệu quả đòi hỏi hệ thống thông tin quản lý của ngân hàng phải đảm bảo chất lượng. Một hệ thống thông tin quản lý tốt phải đảm bảo được các yêu cầu về tính đầy đủ, tính cập nhật, tính minh bạch sẽ ngân hàng mới đưa ra được các quyết định phân bổ vốn hợp lý. Đồng thời, cảnh báo kịp thời cho Ban điều hành mức độ rủi ro, hạn mức rủi ro để đảm bảo cơ cấu tài sản hình thành không vượt quá các hạn mức rủi ro xây dựng. Ngược lại, nếu hệ thống thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định, cũng như khó khăn trong quá trình giám sát danh mục, sẽ làm tăng rủi ro cho danh mục của ngân hàng.
* Trình độ, năng lực phân tích thị trường, năng lực quản trị của cán bộ ngân hàng
Đây là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng. Một NHTM có đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực phân tích thị trường, xây dựng được định hướng kinh doanh, chính sách thực hiện, đồng thời thực hiện phân bổ vốn đầu tư, cho vay có có hiệu quả sẽ quyết định đến an toàn và và hiệu quả kinh doanh. Năng lực của đội ngũ nhân sự của ngân hàng thể hiện ở khả năng xây dựng chiến lược, năng quản trị điều hành và năng lực kiểm soát của Ban lãnh đạo các NHTM. Năng lực của nhà quản trị ngân hàng thể hiện ở việc đề ra các chính sách, chiến lược phù hợp, thích ứng với những thay đổi của thị trường,… Ở việc đưa ra quyết định phân bổ nguồn lực, tổ
chức thực hiện, điều chỉnh danh mục; tiếp đó là năng lực quản trị TSC, TSN, năng lực QTRR, quản trị thanh khoản, quản trị nhân sự,…
1.3. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SỬ DỤNG VỐN TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, BÀI HỌC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm của một số ngân hàng thương mại
1.3.1.1. Ngân hàng Kasikorn của Thái Lan
Kasikorn Bank (KBank) được thành lập 8/6/1945, chứng khoán của Ngân hàng được niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán Thái Lan năm 1976, đến nay KBank trở thành ngân hàng có giá trị vốn hóa thị trường đứng thứ hai trong ngành ngân hàng Thái Lan. Là Tập đoàn tài chính - ngân hàng đa năng, các lĩnh vực hoạt động gồm: NHTM (KBank), chứng khoán (KSecurities), cho thuê tài chính (KLeasing), quản lý tài sản, nghiên cứu và tư vấn (Kresearch),... KBank nhận được giải thưởng Ngân hàng Tài chính xuất sắc nhất Thái Lan năm 2015, hiện đang đứng thứ 4 về quy mô tài sản (cuối năm 2016 đạt 2.846 tỷ Bath), chiếm 15,3% thị phần tại Thái Lan, tổng doanh thu chiếm vị trí số 1 ở Thái Lan. Số lượng chi nhánh và phòng giao dịch cuối năm 2016 là 1.119, số lượng nhân viên hơn 21 nghìn người. KBank đã mở văn phòng đại diện và đang có kế hoạch mở ngân hàng con 100% vốn tại Việt Nam, nhằm tận dụng những cơ hội do Cộng đồng kinh tế ASEAN+3 (AEC+3) đem lại.
Bên cạnh đó, KBank là một trong số các ngân hàng tiên phong tại Thái Lan triển khai Hiệp ước Basel III từ 1/1/2013, với các chỉ tiêu an toàn đạt mức độ cao, năm 2016 là 18,8% với tỷ lệ vốn cấp 1 (Tier 1) đạt 15,5%.Tỷ lệ nợ xấu từ 2011-2016 đều < 2,7%, các chỉ số phản ánh khả năng sinh lời ở mức cao, trong đó NIM dao động từ 3,5% đến 4%. ROA của ngân hàng giai đoạn này dao động từ 1,49% đến 2,0%, ROE dao động từ 13,23% đến 20,76% [89]
Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của KBank theo phương thức chủ động và theo hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại, giảm hình thức truyền thống là cho vay, tăng tỷ trọng vốn đầu tư và đa dạng hóa danh mục tài sản. Nếu năm 2011, tỷ trọng dư nợ cho vay/tổng tài sản của Ngân hàng chiếm 70% (giá trị dư nợ cho vay đạt 1.211 nghìn tỷ Bath/tổng tài sản 1.723 nghìn tỷ Bath) thì năm 2016, chỉ còn chiếm 60% (giá trị là 1.698 nghìn tỷ Bath) [89].
Cùng với đó, chiến lược cho vay của KBank hướng tới là chuyển dịch cơ cấu cho vay theo hướng tăng tỷ trọng cho vay đối với DNNVV. Đến cuối năm 2015, KBank là ngân hàng số 1 phục vụ trong lĩnh vực DNNVV chiếm hơn 30% thị phần tại Thái Lan [89]. Trước đây, KBank chủ yếu quan tâm đến tài sản bảo đảm khi quyết định cho vay, vào năm 1997-1999, khi cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực xảy ra thì tỷ lệ nợ xấu của KBank có lúc lên tới 40%. Hiện nay, KBank chú trọng nhiều hơn đến dòng tiền và xếp hạng tín nhiệm của khách hàng khi quyết định cho vay, đầu tư. Riêng đối với lĩnh vực có rủi ro cao, trong đó có cho vay lĩnh vực BĐS thì Ngân hàng còn xây dựng chính sách và quy trình cho vay và được công bố trong sổ tay tín dụng [29,tr.79]
Với năng lực tài chính mạnh, mô hình dịch vụ sáng tạo và sự hiện diện tại nhiều thị trường trong khu vực, khi mở rộng thị trường ra nước ngoài, KBank đều tìm hiểu môi trường kinh doanh nước đó từ đó đưa ra các giải pháp tài chính và phi tài chính toàn diện, bao gồm cả dịch vụ tư vấn kinh doanh để giúp các doanh nghiệp hiểu môi trường kinh doanh nước sở tại. Mô hình hoạt động được phân chia theo các mảng khách hàng: cá nhân, doanh nghiệp, định chế tài chính,... với các sản phẩm được thiết kế phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
KBank luôn thực hiện đầy đủ các qui định an toàn do NHTW Thái Lan ban hành và chủ động áp dụng các chuẩn mực quốc tế về QTRR. Khi mở rộng thị trường, KBank luôn quan tâm đến hoạt động quản trị doanh nghiệp tại khu vực/quốc gia đầu tư, đồng thời quan tâm đến vấn đề sở hữu chéo, nhằm tránh nguy cơ đổ vỡ của một công ty này dẫn đến sự đổ vỡ của một công ty khác. Sở hữu chéo cần minh bạch để có thể hiểu được những rủi ro liên quan [89]. Để thực hiện cung cấp tốt nhất các dịch vụ cho KHDN, đặc biệt các khách hàng thuộc các thị trường mới thâm nhập, KBank luôn chú trọng, quan tâm tổ chức, tham dự các sự kiện kết nối thương mại cho doanh nghiệp các nước. Bên cạnh đó, KBank coi trọng việc cập nhật hiểu biết, liên tục đào tạo cho cán bộ, nhân viên ngân hàng nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng độc lập trong thực thi nhiệm vụ được phân công.
1.3.1.2. Ngân hàng ANZ
ANZ là ngân hàng hàng đầu của Australia, với tổng giá trị tài sản đến cuối năm 2016 đạt gần 914 tỷ USD. ANZ hoạt động theo mô hình ngân hàng đa năng với hệ thống mạng lưới là các chi nhánh, ngân hàng con khắp các châu
lục, trở thành ngân hàng hình mẫu để các NHTM trên thế giới học hỏi. Cơ cấu sử dụng vốn của ANZ chuyển dịch theo xu hướng giảm tỷ trọng vốn sử dụng vào hoạt động cho vay, tăng tỷ trọng vốn vào hoạt động đầu tư. Năm 2008 là năm ANZ bắt đầu triển khai QTRR theo Basel II, khi đó qui mô tài sản là 471 tỷ USD thì dư nợ cho vay là 335 tỷ USD (chiếm 71%), trong khi đó tỷ trọng giá trị CK kinh doanh, đầu tư và các công cụ phái sinh chiếm 15% thì đến năm 2016, tỷ trọng dư nợ cho vay giảm đáng kể, chỉ còn 63% và tỷ trọng giá trị CK đầu tư, kinh doanh và công cụ phái sinh chiếm 22% [87]
Đối với hoạt động cho vay, ANZ có xu hướng phát triển các dịch vụ khách hàng DNNVV và KHCN. ANZ là ngân hàng rất thành công khi phát triển các sản phẩm bán lẻ tại thị trường các nước. Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu thị trường để từ đó thiết kế sản phẩm cho phù hợp với từng nước, từng khu vực. Để đánh giá rủi ro cơ cấu cho vay, Ngân hàng rất chú trọng trong phân tích, đánh giá mức độ tập trung DMCV. Với hoạt động đầu tư, chiến lược kinh doanh chủ động giúp ngân hàng lựa chọn đầu tư và kinh doanh những công cụ khả năng sinh lời ổn định và an toàn (CK Chính phủ và CK doanh nghiệp có độ tín nhiệm cao).
Để xây dựng và điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn nói chung, cơ cấu cho vay, đầu tư nói riêng, ANZ áp dụng phương pháp RAROC. Theo đó, một giao dịch cho vay, đầu tư chỉ được thực hiện khi nó đem lại giá trị cho cổ đông. Nếu RAROC của khoản cho vay, đầu tư thấp hơn ROE thì sẽ không được thực hiện, còn nếu cao hơn sẽ được thông qua [44]. Để thực hiện được chiến lược kinh doanh Ngân hàng đã thiết lập và áp dụng mô hình đo lường rủi ro với sự hỗ trợ của công nghệ, hệ thống thông tin, dữ liệu đầy đủ và đồng bộ.
Bảng 1.2. ROE và RAROC đối với khoản cho vay của ANZ
2008 | 2010 | 2011 | 2015 | 2016 | |
ROE | 14,5% | 13,9% | 13,2% | 14% | 10,3% |
RAROC | > 14,5% | > 13,9% | > 13,2% | >14% | >10,3% |
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Điểm Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại
- Ý Nghĩa Của Chuyển Dịch Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Trong Hoạt Động Kinh Doanh Đối Với Ngân Hàng Thương Mại
- Tiêu Chí Đánh Giá Chuyển Dịch Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tổng Quan Về Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam
- Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Và Độ Lệch Tỷ Trọng Các Loại Tài Sản So Năm Trước Của Vietinbank
- Hệ Số Và Tỷ Lệ Chuyển Dịch Cơ Cấu Cho Vay Theo Đối Tượng Kh
Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.
Nguồn: [87]
1.3.1.3. Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư & Phát triển Việt Nam - BIDV BIDV tiền thân là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, được thành lập năm 1957. Từ một ngân hàng hoạt động theo chỉ định, cấp tín dụng trong lĩnh vực
chuyên ngành, chủ yếu cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Ngày 28/12/2011, BIDV đã thực hiện thành công IPO, năm 2015, MHB được sáp nhập vào BIDV, sự kiện đó đã đưa BIDV đã trở thành ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn nhất trong toàn hệ thống (1.007 nghìn tỷ đồng) vào cuối 2016. BIDV được đánh giá là một trong những ngân hàng hoạt động hiệu quả, công tác quản trị điều hành đang dần thực hiện theo chuẩn quốc tế, là 1 trong 10 ngân hàng được NHNN lựa chọn triển khai Basel II năm 2014.
Cơ cấu sử dụng vốn của BIDV có sự chuyển dịch theo xu hướng của các ngân hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng tổng hợp hiện đại trên thế giới: tăng tỷ trọng vốn vào các hoạt động đầu tư, giảm dần tỷ trọng dư nợ cho vay, tuy nhiên trong hai năm gần đây 2015-2016, tỷ trọng dư nợ cho vay của BIDV có xu hướng tăng trở lại, năm 2016 chiếm gần 70%.
Đối với danh mục đầu tư CK, BIDV tập trung năm giữ CK Chính phủ có độ an toàn cao. Đối với hoạt động cho vay, cơ cấu dư nợ cho vay của Ngân hàng cũng chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn, giảm sự tập trung danh mục vào lĩnh vực truyền thống. Tuy nhiên, với truyền thống hoạt động cơ cấu cho vay tập trung và có thế mạnh trong cho vay lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (trung bình trong giai đoạn 2010-2015 khoảng 46% tổng dư nợ), tiếp đó là cho vay lĩnh vực thương mại, dịch vụ (chiếm khoảng 35% tổng dư nợ). Xét theo đối tượng khách hàng và thành phần kinh tế: tỷ trọng cho vay đối với DNNN có giảm, cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay KHCN tăng cao. Hiện nay, tỷ trọng cho vay DNNN tại BIDV chiếm 11%; tỷ trọng KHDN ngoài quốc doanh chiếm tới 71% và cho vay KHCN chiếm gần 18%, còn lại là cho vay đối với các lĩnh vực khác. Xét theo thời hạn cho vay: nếu trước đây, dư nợ cho vay theo thời hạn của BIDV tập trung vào cho vay T-DH thì khoảng một thập niên qua xu hướng giảm tỷ trọng dư nợ T-DH phù hợp với cơ cấu NVHĐ theo thời hạn. Tuy nhiên so với toàn hệ thống BIDV là ngân hàng có mức dư nợ T-DH cao hiện nay còn trên 40% [88].
Chuyển dịch cơ cấu cho vay, đầu tư nói riêng và cơ cấu sử dụng vốn tại BIDV cũng từng bước thực hiện theo chiến lược chủ động. Hiện nay, BIDV
đã ban hành được những giới hạn đối với từng mảng hoạt động, từng lĩnh vực. Từ năm 2007, BIDV là NHTM Việt Nam đầu tiên chuyển đổi từ cơ chế quản lý vốn phân tán sang quản lý tập trung. Cùng với hệ thống thanh toán tập trung giúp ngân hàng quản lý giám sát có hiệu quả hơn các biến động về vốn, quản lý tập trung RRTK và RRLS. Hoạt động cho vay và đầu tư được thực hiện trên cơ sở các giới hạn thiết lập.
Để triển khai Basel II, BIDV đã phối hợp với Công ty TNHH Pricewaterhouse Coopers (PwC) Việt Nam. Thông qua tư vấn của PwC, năm 2015 BIDV là ngân hàng Việt Nam đầu tiên đã xây dựng và tuyên bố khẩu vị rủi ro trong từng năm hoạt động. Đó là cơ sở để Ngân hàng xây dựng kế hoạch, mục tiêu cho từng hoạt động trong đó có hoạt động sử dụng vốn. Việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại BIDV luôn được đặt trong mối tương quan với cơ cấu NVHĐ. Để quản trị RRTK, BIDV sử dụng phương pháp chỉ số thanh khoản kết hợp với lập báo cáo cung cầu thanh khoản định kỳ và hàng ngày.
Bảng 1.3. Khẩu vị rủi ro của BIDV năm 2016
Lợi nhuận trước thuế | CAR | Các chỉ số thanh khoản | Mức định hạng tín nhiệm | |
12%, không thấp hơn 7,44% trong trường hợp xấu nhất | Giảm tối đa 2.571 tỷ đồng | 9% | Thực hiện theo TT36/2015/NHNN và QĐ1424/2015/NHNN | Có ít nhất 1 loại định hạng tín nhiệm không thấp hơn mức định hạng quốc gia quá 1 bậc |
Nguồn: [88]
1.3.2. Bài học đối với ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
* Một là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện mới, mở rộng thị trường, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
Chiến lược kinh doanh là cơ sở để xây dựng định hướng, thực hiện mọi hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, việc phân tích các điều kiện thị trường, điều kiện nội tại, để tận dụng các cơ hội là cơ sở để ngân hàng mở rộng thị trường và vượt qua thách thức là mô hình phổ biến để xây dựng chiến lược kinh doanh. Đối với hoạt động sử dụng vốn, trên cơ sở chiến lược và mục tiêu hoạt động, NHTM cần
xây dựng mức rủi ro chấp nhận để thiết lập và điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn. Mức rủi ro chấp nhận dựa trên các yếu tố: Mức thu nhập; tăng trưởng tiềm năng; vị trí trong ngành; các chỉ số tài chính; mức xếp hạng tín nhiệm. Bên cạnh đó, tăng cường năng lực công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin quản lý phục vụ công tác quản trị, điều hành, kiểm soát. Quá trình điều chỉnh cấu DMCV, đầu tư của ngân hàng chỉ được thực hiện hiệu quả khi ngân hàng cung cấp các sản phẩm mới dựa trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại với nhiều tiện ích.
* Hai là, phân tích và đánh giá xu hướng sự phát triển thị trường là điều kiện để ngân hàng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn thành công.
Việc đánh giá xu hướng phát triển các bộ phận thị trường là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược kinh doanh đồng thời nó còn là căn cứ để ngân hàng điều chỉnh cơ cấu cho vay và đầu tư của mình. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn chỉ được coi là hiệu quả khi DMCV, đầu tư, các sản phẩm ngân hàng cung cấp đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Khi thâm nhập, mở rộng thị trường mới, việc nghiên cứu văn hóa tiêu dùng, đặc điểm ngành nghề kinh tế để thiết kế sản phẩm dịch vụ phù hợp là yêu cầu quan trọng. Đặc biệt với sự phát triển của các cấu trúc TTTC sẽ tạo ra nhiều công cụ tài chính hiện đại: phái sinh tín dụng, mua bán nợ, chứng khoán hóa các khoản vay,… với các mục đích và cách thức khác nhau, nếu ngân hàng biết vận dụng trong việc điều chỉnh cơ cấu tài sản sẽ là công cụ quan trọng giúp ngân hàng thuận lợi trong điều chỉnh cơ cấu cho vay của mình theo những mục tiêu đã định.
* Ba là, cần quan tâm và tăng cường công tác quản trị theo thông lệ quốc tế đặc biệt là QTRR
Nghiên cứu kinh nghiệm và bài học rút ra từ các ngân hàng cho thấy một số xu hướng nổi bật trong chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn là: Xu hướng đa dạng hóa cơ cấu danh mục sử dụng vốn nói chung, cho vay và đầu tư nói riêng nhằm hạn chế rủi ro tập trung danh mục. Hơn nữa, kinh doanh ngân hàng luôn đối diện với nhiều rủi ro, rủi ro ngày càng gia tăng, do vậy cần tăng cường công tác quản trị phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong hoạt động cho vay, tài sản bảo đảm sẽ không phải là điều kiện để ra quyết định trong sốt quá trình cho vay
mà độ tín nhiệm của khách hàng mới là căn cứ quan trọng. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng hiện đại là quá trình điều chỉnh có chủ đích, chính vì vậy đòi hỏi ngân hàng không chỉ quan tâm đến quản trị các giao dịch (cho vay/đầu tư) mà cần chú trọng đến quản trị cơ cấu tài sản.
* Bốn là, chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn luôn gắn liền với các quy định giới hạn của cơ quan quản lý và các tiêu chuẩn giám sát theo thông lệ quốc tế.
Đây được xem là một trong các tuyến phòng thủ hữu hiệu nhất ở tầm vĩ mô, đảm bảo phát hiện các dấu hiệu cảnh báo cơ cấu cho vay và đầu tư của các NHTM, cũng như dấu hiệu bất ổn trên TTTC, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn diễn biến xấu có thể đưa đến khủng hoảng trên bình diện rộng. Mặc dù chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn là quyết định của từng ngân hàng. Tuy nhiên hậu quả của một cơ chế quản trị yếu kém không phải chỉ giới hạn cho ngân hàng đó mà có tính lan truyền. Vì vậy, sự giám sát cảnh báo của cơ quan giám sát ngân hàng là đặc biệt cần thiết. Bên cạnh đó, việc hình thành một khung pháp lý chặt chẽ cho hoạt động ngân hàng cũng như TTTC cũng rất cần được coi trọng.
* Năm là, chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn luôn đặt trong mối tương quan với cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng
Các yêu cầu an toàn đòi hỏi ngân hàng cần thiết lập đồng thời cơ cấu TSC, TSN tối ưu. Tuy nhiên, do đặc điểm của cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng vì vậy, ngân hàng phải có sự điều chỉnh linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo định hướng đòi hỏi ngân hàng cần điều chỉnh cơ cấu NVHĐ cho phù hợp và ngược lại, điều đó có nghĩa là ngân hàng cần có sự phối hợp trong nội dung quản trị TSC, TSN. Hơn nữa, cần tăng cường phân tích, đánh giá, rà soát các khoản mục đầu tư để điều chỉnh cơ cấu một cách có hiệu quả.
* Sáu là, bồi dưỡng, đào tạo được đội ngũ nhân sự đáp ứng được những thay đổi của môi trường kinh doanh
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, bồi dưỡng đào tạo cán bộ nhằm có trình độ chuyên môn phù hợp vị trí công việc thực hiện. Tận dụng được các cơ hội trong quá trình hội nhập cần tiêu chuẩn hóa các cán bộ,