Ý Nghĩa Của Chuyển Dịch Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Trong Hoạt Động Kinh Doanh Đối Với Ngân Hàng Thương Mại


đổi tỷ trọng từng loại tài sản cấu thành trong danh mục sử dụng vốn, được phân chia theo tiêu thức nhất định tại một thời điểm hoặc một giai đoạn so với một thời điểm hoặc một giai đoạn trong quá khứ.

Thực chất chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM là việc phân bổ lại vốn sử dụng cho từng hoạt động và từng khoản mục tài sản trong mỗi hoạt động. Nó không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự thay đổi cả về qui mô và chất lượng sử dụng vốn của NHTM. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM được coi là hợp lý nếu thiết lập được cơ cấu tài sản tối ưu cho ngân hàng - đạt được mục tiêu tối ưu hóa tương quan thu nhập/rủi ro.

1.2.2. Ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh đối với ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Nhằm phù hợp với sự thay đổi nhu cầu và sự phát triển của thị trường

Khi nền kinh tế - xã hội càng phát triển thì nhu cầu thị trường cũng thay đổi và đa dạng hơn đòi hỏi ngân hàng phải thích ứng. Nếu trước đây, các NHTM thường chỉ sử dụng vốn để cho vay thì ngày nay, tỷ trọng vốn sử dụng để cho vay có xu hướng giảm xuống mà thay vào đó xu hướng sử dụng vốn để đầu tư lại tăng lên, đặc biệt tăng tỷ trọng đầu tư vào các loại CK vừa có khả năng sinh lời, vừa tăng tính thanh khoản cho tài sản.

Hơn nữa, đối với hoạt động truyền thống là cho vay, ngày nay đã xuất hiện nhiều hình thức cho vay mới, nhiều sản phẩm cho vay để đáp ứng nhu cầu, mục đích của mọi đối tượng khách hàng trong xã hội. Bản thân mỗi NHTM khi xây dựng chính sách tín dụng, khi thiết kế sản phẩm mới thì việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là yêu cầu bắt buộc.

1.2.2.2. Nhằm đa dạng hóa danh mục tài sản, phân tán rủi ro.

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn rất cần thiết hướng đến các hình thức sử dụng vốn đa dạng, tránh tập trung quá mức, với số lượng lớn những khoản cho vay có giá trị phù hợp, khi gặp biến cố rủi ro sẽ hạn chế được những tổn thất lớn. Mở rộng những khoản cấp tín dụng đa dạng cho nhiều ngành, lĩnh vực hay đối tượng khách hàng ít phụ thuộc nhau sẽ làm cho việc tổn thất của bất kỳ một khoản cho vay nào sẽ ít ảnh hưởng đến rủi ro cho khoản cho vay khác của


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

NHTM. Đồng thời, việc phân tán rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn của các NHTM còn là yêu cầu cần thiết trong hoạt động quản trị ngân hàng.

1.2.2.3. Tối ưu hóa tương quan thu nhập/rủi ro cho danh mục tài sản của ngân hàng.

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 4

Mục tiêu mà các ngân hàng hướng tới là thiết lập một cơ cấu sử dụng vốn tối ưu, kiểm soát được rủi ro trong mức độ chấp nhận được nhằm nâng cao khả năng sinh lời vốn kinh doanh. Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng là hai đại lượng đồng biến (lợi nhuận kỳ vọng càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn và ngược lại). Do vậy, ngân hàng luôn phải xử lý hài hòa tương quan mối quan hệ này khi xây dựng và điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn của mình theo hướng tối ưu hóa tương quan thu nhập/rủi ro. Ngoài việc đáp ứng theo nhu cầu thị trường, NHTM còn phải thực hiện thông qua các biện pháp phù hợp, điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn. Khi đó, giúp NHTM tiết giảm được chi phí không hiệu quả (các chi phí liên quan đến giám sát, xử lý nợ xấu), nâng cao khả năng sinh lời.

1.2.3. Phương thức chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

Trong kinh doanh ngân hàng hiện đại thì công tác quản trị danh mục tài sản được các ngân hàng rất chú trọng. Cơ cấu tài sản là kết quả của quyết định phân bổ và điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng, đồng thời chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn là kết quả của công tác quản trị hoạt động sử dụng vốn, quản trị danh mục tài sản của ngân hàng. Dựa trên cơ sở lý thuyết về quản trị danh mục tài sản, có thể chia phương thức chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM gồm: chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn thụ động và chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn chủ động.

1.2.3.1. Phương thức chuyển dịch thụ động

Theo phương thức này, quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng diễn ra một cách ngẫu nhiên. Trên cơ sở nhu cầu thị trường, ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư. Cơ cấu sử dụng vốn được hình thành và thay đổi hoàn toàn theo tín hiệu thị trường. Ngân hàng không dự báo được lợi nhuận cũng như mức độ rủi ro danh mục tài sản, rủi ro tập trung danh mục rất dễ xảy ra.

Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo phương thức này hoàn toàn do những tác động của yếu tố thị trường. Đây cũng là nguyên nhân gây ra sự tăng trưởng “nóng” của một số ngành, một số lĩnh vực,... dẫn đến nguy cơ “bong


bóng” hoặc khủng hoảng thừa. Chuyển dịch theo phương thức này đó là kết quả quản trị danh mục theo phương pháp bị động. Đặc trưng của phương thức này là ngân hàng chủ yếu phản ứng sau khi giám sát và phát hiện được các biểu hiện bất thường của danh mục, chứ ít/không có các hành động đi trước. Vì vậy, điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn sau giám sát được xem là nội dung chính yếu trong công việc của các NHTM theo đuổi phương pháp quản trị này.

Phương thức chuyển dịch thụ động khá phổ biến ở ngân hàng các nước nhỏ, các nước có nền kinh tế chủ yếu dựa vào một vài ngành sản xuất kinh doanh đặc thù nào đó như: nông nghiệp, xuất khẩu,... mức độ hội nhập của nền kinh tế chưa cao, ít chịu biến động bởi môi trường quốc tế bên ngoài. Trong những thời kỳ kinh tế còn ổn định, những hạn chế của phương thức chuyển dịch thụ động không được bộc lộ rõ nét. Tuy vậy, sẽ cực kỳ nguy hiểm cho NHTM nếu nền kinh tế biến động theo chiều hướng bất lợi, những ngành/khu vực mà ngân hàng tập trung cho vay có dấu hiệu giảm sút hoạt động [1], [8].

1.2.3.2. Phương thức chuyển dịch chủ động

Trên cơ sở định hướng phát triển của ngành, nhu cầu thị trường, chiến lược kinh doanh, qui mô và cơ cấu NVHĐ, mức rủi ro dự tính và mức lợi nhuận kỳ vọng, NHTM xây dựng cơ cấu sử dụng vốn tối ưu, từ đó xây dựng chính sách và sử dụng các biện pháp thực hiện, giám sát, điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn theo mục tiêu đã định. Ngân hàng có thể dự báo được khả năng sinh lời, cũng như mức độ rủi ro của danh mục. Do đó, kiểm soát được tương quan rủi ro/lợi nhuận của danh mục tài sản.

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM theo phương thức chủ động không chỉ diễn ra ở bước điều chỉnh cơ cấu danh mục mà nó là cả quá trình từ khâu xây dựng cơ cấu mục tiêu, tổ chức và giám sát thực hiện, điều chỉnh cơ cấu. Đây là quá trình thường xuyên và được các NHTM hiện đại trên thế giới thực hiện. Theo đó bao gồm những nội dung sau:

(1) Thiết lập cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu

Cũng giống như hầu hết của các mục tiêu kinh doanh khác của NHTM, mục tiêu hoạt động sử dụng vốn của NHTM liên quan đến việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi nhuận và an toàn. Một cơ cấu sử dụng vốn không có rủi ro


cũng có nghĩa là không tạo ra lợi nhuận hoặc lợi nhuận kỳ vọng thấp. Vì vậy, cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu mà NHTM hướng tới đó là:

- Xây dựng một cơ cấu sử dụng vốn với lợi nhuận kỳ vọng cao nhất (mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận) cùng với mức độ rủi ro danh mục xác định;

- Hoặc là, xây dựng một cơ cấu sử dụng vốn với mức lợi nhuận xác định (có thể chưa phải là mức cao nhất) và rủi ro danh mục ở mức thấp nhất (tối thiểu hóa rủi ro) [1].

Như vậy, cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu được xây dựng dựa trên cơ sở thái độ ứng xử của ngân hàng trước rủi ro hay đó còn gọi là “khẩu vị rủi ro” (Risk Appetite). Khẩu vị rủi ro phản ánh thái độ đối với việc chấp nhận rủi ro ở giới hạn/mức độ nhất định [27, tr.869] trong giới hạn đó ngân hàng có khả năng và sự sẵn sàng (có chuẩn bị trước) để hứng chịu, khắc phục và vượt qua các rủi ro (tổn thất). Với NHTM, khẩu vị rủi ro cần phải được thường xuyên rà soát và điều chỉnh trong mối liên hệ chặt chẽ với quá trình thiết lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Khẩu vị rủi ro phải xác định rõ:

(i) Các loại rủi ro mà ngân hàng không chấp nhận và do đó cần có các hành động quyết liệt để giảm thiểu, kiểm soát loại rủi ro này;

(ii) Các loại rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận tới một mức độ nào đó khi đưa ra một sản phẩm/dịch vụ/quy trình nghiệp vụ mới;

(iii) Các loại rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận vì mục tiêu cạnh tranh.

Việc thiết lập cơ cấu sử dụng vốn chính là việc cụ thể hóa chính sách phân bổ tài sản (Asset Allocation). Theo các tài liệu nghiên cứu về lý thuyết quản trị danh mục hiện đại của nhà kinh tế học Harry Markowitz có đề cập [80], thì mỗi cách kết hợp khác nhau của các loại tài sản sẽ mang lại cơ cấu tài sản khác nhau. Nếu nhà đầu tư hoặc ngân hàng kết hợp nhiều loại tài sản/cho vay khác nhau trên một danh mục, hay nói cách khác nhà đầu tư hoặc ngân hàng nếu đa dạng hóa danh mục trong hoạt động cho vay/đầu tư thì rủi ro của cả cơ cấu danh mục sẽ thấp hơn so với rủi ro của các loại tài sản/cho vay riêng biệt tổng hợp lại. Lý thuyết này cũng được nhiều nhà nghiên cứu tại các nước phát triển khẳng định khi nghiên cứu về ảnh hưởng của việc đa dạng hóa đến DMCV/đầu tư của ngân hàng. Vấn đề là làm sao ngân hàng lựa chọn được một cách kết hợp tối ưu nhất, phù hợp với nội lực của ngân hàng, với tổn thất mục tiêu mà ngân hàng đã dự


kiến. Vì vậy, nội dung cơ bản của việc thiết lập cơ cấu sử dụng vốn là xác định qui mô và tỷ trọng hợp lý của từng loại tài sản đáp ứng nhu cầu dự trữ, tỷ trọng tài sản sinh lời và cơ cấu từng trong nội bộ từng loại tài sản được phân chia theo tiêu thức quản lý nhất định [1, tr.22].

Bên cạnh đó, một mục tiêu đặc trưng khác cần thiết phải hướng tới đó là giới hạn tổn thất của toàn danh mục sử dụng vốn trong khả năng chịu đựng của ngân hàng, nói khác đi là NHTM phải xác định tổn thất mục tiêu, trong đó tập trung vào DMCV và đầu tư của mình. Ngân hàng phải giới hạn tổn thất trên DMCV, đầu tư của mình sao cho tương xứng. Mức tổn thất dự kiến phù hợp với khả năng chịu đựng bằng vốn tự có của ngân hàng được gọi là tổn thất mục tiêu. Con số này phải được xác định ngay từ khi hoạch định mục tiêu hoạt động, bên cạnh con số mục tiêu về lợi nhuận. Để thiết kế cơ cấu cho vay, đầu tư NHTM phải đồng thời dựa vào nhiều yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Tập hợp các yếu tố đó tạo nên những kịch bản khác nhau, tác động tới hoạt động của mình. Các ngân hàng sẽ tùy thuộc mục tiêu, các yếu tố dự báo và điều kiện, lợi thế riêng của mình để lựa chọn những phương án danh mục theo ngân hàng là tối ưu. Không nhất thiết chỉ có một phương án danh mục nhất định, mà ngân hàng có thể có những phương án danh mục khác nhau thích hợp với những kịch bản khác nhau.

(2) Tổ chức thực hiện cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu

* Tổ chức bộ máy hoạt động

Nguyên tắc chung cho việc tổ chức thực hiện cơ cấu sử dụng vốn và quản trị danh mục tài sản hiệu quả là phải thực hiện tách biệt giữa các chức năng hoạch định chiến lược (của HĐQT), chức năng tổ chức điều hành (của Ban điều hành) và chức năng kiểm tra giám sát (của Ban kiểm soát). Mặt khác phải hình thành và củng cố hoạt động chuyên môn hóa về QTRR. Dựa trên nguyên tắc này, trong bộ máy tổ chức cần phải tuân thủ các vấn đề sau:

- Phải thiết lập được một hệ thống QTRR tập trung và độc lập. Trong mô hình tổ chức quản trị, không thể thiếu được bộ phận QTRR. Bộ phận này trực thuộc sự chỉ đạo của Ban điều hành, cùng cấp với các phòng, ban tác nghiệp khác.Tuy nhiên hoạt động của bộ phận này tách biệt, không tham gia vào quá trình tác nghiệp để đảm bảo tính độc lập. Ngoài yêu cầu về tính độc lập, do mối liên hệ tác động giữa các loại hình rủi ro trong hoạt động ngân hàng, nên bộ


phận QTRR cần phải có tính tập trung cao, có nghĩa là tất cả các loại rủi ro (RRTD, rủi ro thị trường, RRHĐ, RRTK, RRLS,...) cần phải thuộc trách nhiệm quản lý của bộ phận này. Điều này sẽ giúp cho việc đánh giá và kiểm soát tổng thể các rủi ro ở toàn phạm vi ngân hàng được thuận lợi hơn.

- Về mạng lưới tổ chức, bộ phận QTRR có thể bao gồm “các chân rết” được hình thành tại các chi nhánh, để đảm bảo việc truyền đạt các quyết định, chuyển giao báo cáo liên quan được thông suốt kịp thời. Về nội dung công việc, bộ phận quản lý rủi ro là nơi trực tiếp xây dựng và tư vấn cho ban đ iều hành các quy định nhằm cụ thể hóa các chính sách quản trị danh mục, chuyển giao cho các bộ phận tác nghiệp thực hiện. Mặt khác, bộ phận QTRR cũng là đầu mối giám sát việc thực hiện danh mục, phát hiện những dấu hiệu vi phạm, vượt giới hạn của bộ phận tác nghiệp, tư vấn cho ban điều hành biện pháp điều chỉnh khi cần thiết.

- Phải có sự hỗ trợ của hệ thống kiểm toán nội bộ nhằm giám sát sự tuân thủ trong thực thi các chính sách liên quan đến quản trị danh mục và phát hiện các dấu hiệu cảnh báo rủi ro tiềm tàng liên quan đến danh mục. Hoạt động của hệ thống kiểm toán do Ban kiểm soát của ngân hàng chịu trách nhiệm, vì vậy có tính độc lập cao (do Ban kiểm soát trực thuộc Đại hội đồng cổ đông). Về chức năng, kiểm toán nội bộ không chỉ giám sát công tác điều hành mà giám sát cả công tác hoạch định chiến lược của HĐQT [1], [8]

* Xây dựng chính sách thực hiện

Các chính sách phải do Ban điều hành soạn thảo và được HĐQT ngân hàng thông qua. Chính sách được hiểu là hệ thống các văn bản mang tính pháp quy của ngân hàng, có ý nghĩa “dẫn đường” trong tổ chức thực hiện cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng. Hay nói cách khác, chính sách chỉ ra cách thức để ngân hàng với các nguồn lực hiện tại, đạt tới mục tiêu là một cơ cấu danh mục sử dụng vốn tối ưu trong tương lai. Thông thường các chính sách trong quản trị danh mục của NHTM gồm có: chính sách đa dạng hóa danh mục, chính sách cho vay, chính sách đầu tư, chính sách phân loại nợ và trích lập DPRR, chính sách giới hạn/ hạn chế cấp tín dụng,… Đây là những chính sách nhằm thực hiện phân tán rủi ro tập trung và đồng thời quy định việc trích lập dự phòng thích hợp để đối phó với tổn thất dự kiến của hoạt động sử dụng vốn. Dựa trên chính sách đã phê duyệt, việc tổ


chức thực hiện và giám sát cơ cấu sẽ có cơ sở để tiến hành.

Để có căn cứ cho việc giám sát quá trình thực hiện, ngân hàng cần xây dựng hệ thống chính sách theo các cấp độ. Theo khung quản trị ngân hàng hiện đại, các chính sách này được xây dựng theo các cấp độ: từ khung chính sách tổng thể ban hành các chính sách cụ thể, tiếp đó ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chính sách và quy trình thực hiện chung, quy trình chi tiết cho từng loại sản phẩm, dịch vụ nhằm đảm bảo nguyên tắc nhất quán và hiệu quả của chính sách.

(3) Giám sát thực hiện, đo lường rủi ro danh mục tài sản

* Giám sát thực hiện cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu

Công tác QLRR hoạt động sử dụng vốn cần được chú trọng. Mô hình QLRR hiện đại cần thực hiện dựa trên nguyên tắc “ba vòng kiểm soát” bao gồm:

(i) Các đơn vị kinh doanh tại vòng 1 đóng vai trò là đơn vị trực tiếp chịu trách nhiệm từ khâu nhận diện, đánh giá, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro;

(ii) Vòng 2 là các đơn vị QLRR với trách nhiệm thiết lập các chính sách, nguyên tắc, hạn mức kiểm soát và giám sát độc lập việc QLRR;

(iii) Vòng 3 là đơn vị Kiểm toán nội bộ với trách nhiệm đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả của việc QLRR tại vòng 1 và vòng 2. Tất cả các giao dịch cho vay, đầu tư trước khi đưa vào triển khai cần được rà soát, đánh giá mọi rủi ro liên quan để đảm bảo ngân hàng có thể kiểm soát mọi rủi ro liên quan đến các giao dịch và danh mục này.

Việc giám sát cơ cấu sử dụng vốn được thực hiện thường xuyên tại cơ sở, được thực hiện sau khi cơ cấu sử dụng vốn thực tế đã hình thành và do bộ phận QLRR thực hiện, sau đó trình lên Ban điều hành để từ đó có các quyết sách hợp lý, đúng thời điểm. Một mặt nhằm phát hiện kịp thời những sai phạm, kiểm soát các chỉ tiêu giới hạn an toàn trong hoạt động. Đồng thời, giám sát nhằm điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn phù hợp với những diễn biến thực tế nhằm đạt được các mục tiêu đã định.

Theo phương thức chủ động thì mục tiêu và cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng được hoạch định và xây dựng từ trước, điều này hình thành một định hướng hết sức cần thiết đối với hoạt động cho vay, đầu tư. Tuy nhiên, thực tế môi trường hoạt động của ngân hàng luôn có nhiều biến động, kịch bản thiết kế danh mục


thay đổi cho nên cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng cũng phải được điều chỉnh thích hợp.

* Đo lường rủi ro danh mục tài sản

Các mô hình đo lường rủi ro danh mục tài sản được sử dụng tại các ngân hàng hiện đại trên thế giới gồm: mô hình Value at Risk (giá trị rủi ro - VAR), mô hình Return at Risk on Capital (thu nhập có tính đến rủi ro trên vốn - RAROC)

- Một cách tổng quát, VAR được đo lường như tổn thất tốt đa ở tình huống xấu nhất trong một khoảng thời gian xác định với mức xác suất cho trước (thường được gọi là độ tin cậy). VAR xác định theo cách này gọi là VAR tuyệt đối.

- Mô hình RAROC là phương pháp định lượng đo lường khả năng sinh lời có tính đến rủi ro. RAROC tính toán đến mức độ biến động của thu nhập ròng gây ra bởi sự biến động của tổn thất trong hoạt động. Mức độ tổn thất gồm 2 bộ phận:

+ Thứ nhất, Tổn thất dự kiến được hay còn gọi là tổn thất kỳ vọng - Expected Loss (EL). Loại tổn thất này được xác định từ xác suất vỡ nợ của người vay (Probability at Default - PD), tỷ lệ không thu hồi được của khoản vay khi vỡ nợ (Loss given at Default - LGD) và giá trị của khoản vay tại thời điểm vỡ nợ (Exposure at Default - EAD).

Công thức xác định căn cứ vào quy định của Ủy ban Basel 2 như sau [68]: EL=PD * LGD * EAD

Muốn tính toán được loại tổn thất này, các ngân hàng phải căn cứ vào hệ thống XHTDNB để có được các yếu tố PD và LGD. Tổn thất kỳ vọng (EL) được xem là một loại chi phí kinh doanh, nó được ngân hàng tính toán và đưa vào trong lãi suất cho vay khi thực hiện giao dịch với khách hàng. Đây là cách để ngân hàng có thể bù đắp những tổn thất mà NHTM đã xác định được. Quỹ dự phòng mà ngân hàng trích lập chính là để đối phó với loại tổn thất này.

+ Thứ hai: Tổn thất không kỳ vọng còn gọi là tổn thất không dự tính được/ tổn thất ngoài dự kiến (Unexpected Loss - UL) là hậu quả của biến cố rủi ro phát sinh ngoài dự kiến. Do xác suất xảy ra biến cố cũng như mức độ thiệt hại của biến cố không xác định được nên UL không được xem là chi phí trong kinh doanh. Nói một cách chính xác UL là rủi ro - tức là biến cố thiệt hại nhưng không chắc chắn


Thu nhập ròng - Tổn thất rủi ro dự kiến

có xảy ra hay không. Do đó, ngân hàng phải chuẩn bị vốn để bù đắp nếu rủi ro xảy ra (vốn kinh tế) [29, tr.58,tr.59]


RAROC =

Vốn kinh tế

Nguồn: [68]

(4) Điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn

Với tất cả những lý do trên, việc điều chỉnh cơ cấu sau giám sát là công việc hết sức quan trọng và cần thiết với các ngân hàng. Để điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn nói chung, đặc biệt là cơ cấu cho vay, cơ cấu đầu tư các ngân hàng có thể áp dụng hướng điều chỉnh nội bảng hoặc là điều chỉnh ngoại bảng.

- Điều chỉnh nội bảng:

Trong hướng điều chỉnh nội bảng, ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến qui mô hoặc cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng. Chẳng hạn như biện pháp tích cực thu hồi nợ của các ngành/ khu vực mà dư nợ đang có chiều hướng tập trung rủi ro cao, tăng dư nợ cho vay các khu vực còn tiềm năng, để cải thiện cơ cấu tài sản và cân bằng rủi ro trên phạm vi toàn danh mục; thực hiện mua bán nợ/mua bán CK, tăng vốn đầu tư hoặc thoái vốn đầu tư để trực tiếp thay đổi cơ cấu danh mục,… Ngoài các biện pháp điều chỉnh trực tiếp trên danh mục như trên, ngân hàng cũng có thể gia tăng khả năng chống đỡ rủi ro danh mục bằng cách tăng vốn tự có để tăng khả năng chịu đựng rủi ro, tăng trích lập DPRR,...

- Điều chỉnh ngoại bảng:

Những kỹ thuật hiện đại mà các NHTM sử dụng để điều chỉnh cơ cấu danh mục bao gồm hoán đổi RRTD, chứng khoán hóa các khoản nợ,... Phần lớn trong số các công cụ này xuất hiện khá muộn (từ đầu thập niên 80 đối với chứng khoán hóa nợ; trong những năm 90 đối với hoán đổi RRTD) và phát triển mạnh từ sau những năm 2000, vì vậy chúng được xem là những công cụ hiện đại tham gia vào điều chỉnh danh mục, để phân biệt với các công cụ truyền thống như mua, bán nợ (xuất hiện từ cuối thập niên 60) [1], [8].

Như vậy, có thể thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo


phương thức chủ động không chỉ diễn ra từ việc thiết lập cơ cấu sử dụng vốn mục tiêu, mà nó còn được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện nội tại và những tác động từ yếu tố bên ngoài. Việc triển khai, giám sát quá trình thực hiện ở mọi khâu, mọi giai đoạn đều đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cơ cấu sử dụng vốn hợp lý.

1.2.4. Nội dung chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

Như đã đề cập ở trên, cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng rất phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào cách tiếp cận và các tiêu thức phân loại khác nhau.Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM cũng có thể được tiếp cận trên những góc độ và tiêu chí nhất định. Theo phạm vi nghiên cứu luận án, nội dung chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM sẽ bao gồm: Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo hoạt động và chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn trong nội bộ từng hoạt động.

1.2.4.1. Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo hoạt động

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM theo hoạt động là sự thay đổi tỷ trọng từng loại tài sản hình thành từ hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM cho từng hoạt động sẽ thay đổi, chuyển dịch từ hoạt động này sang hoạt động khác. Do tỷ trọng vốn đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị ngân hàng thường tương đối ổn định,vì vậy nội dung chuyển dịch cơ cấu sử dụng theo hoạt động của NHTM chủ yếu được xem xét trên những góc độ: chuyển dịch giữa hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay và hoạt động đầu tư.

Vốn khả dụng (giá trị ngân quỹ) của NHTM thường đáp ứng những tỷ lệ nhất định về thanh khoản theo yêu cầu quản lý và phụ thuộc trực tiếp vào những biến động vĩ mô liên quan đến tiền tệ. Chính vì vậy, xu hướng gần đây trong hoạt động ngân hàng là: cơ cấu sử dụng vốn theo hoạt động sẽ chuyển dịch từ hoạt động cho vay sang hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư và kinh doanh CK, đầu tư các công cụ tài chính hiện đại [75]. Mức độ chuyển dịch cơ cấu cho vay và đầu tư lại phụ thuộc đáng kể vào sự phát triển TTTC mỗi quốc gia. Thông thường, nếu ở quốc gia nào, TTCK chưa phát triển thì hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn gián tiếp cho nền kinh tế khi đó tỷ trọng dư nợ cho vay sẽ chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản và ngược lại.


Như vậy, khi TTTC phát triển, tỷ trọng vốn phân bổ vào hoạt động đầu tư, kinh doanh CK thường có xu hướng tăng. Khi đó một mặt vẫn đem lại khả năng sinh lời cho ngân hàng, mặt khác tăng tính thanh khoản cho tài sản và phân tán rủi ro. Khi ngân hàng tăng tỷ trọng vốn dành cho hoạt động đầu tư vào các công ty con, hoặc góp vốn đầu tư liên doanh, liên kết thường gắn với xu hướng kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Thậm chí không chỉ trong lĩnh vực tài chính mà còn cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ thông thường. Theo đó, nếu không kiểm soát kỹ sẽ dẫn đến sự đầu tư dàn trải, sở hữu chéo, rủi ro cao,... Do vậy, để hạn chế những rủi ro tiềm ẩn, NHTW các nước thường giới hạn vốn đầu tư đối với lĩnh vực này.

1.2.4.2. Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn trong nội bộ từng hoạt động

(1) Chuyển dịch cơ cấu ngân quỹ

Chuyển dịch cơ cấu ngân quỹ là sự thay đổi tỷ trọng các thành phần trong danh mục ngân quỹ của ngân hàng thương mại. Qui mô và cơ cấu ngân quỹ phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động, chiến lược quản trị thanh khoản của ngân hàng, chính sách điều tiết của NHTW. Cơ cấu ngân quỹ gồm: tiền mặt, tiền gửi tại NHTW, TGKKH tại các TCTD khác. Đây là tài sản NHTM duy trì để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Để tối đa hóa khả năng sinh lời, tỷ trọng ngân quỹ của ngân hàng có xu hướng giảm. Theo xu hướng của các NHTM hiện đại trong nội bộ cơ cấu ngân quỹ thì tỷ trọng tiền mặt có xu hướng giảm.

Trong quá trình thực thi CSTT quốc gia, NHTW quy định các NHTM phải duy trì DTBB. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao hoặc có dấu hiệu tăng trưởng “quá nóng”, NHTW thực hiện “thắt chặt” tiền tệ, tăng tỷ lệ DTBB, điều này sẽ làm cho tỷ trọng tiền gửi của NHTM tại NHTW tăng lên và ngược lại. Trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, tổng cầu suy giảm, giảm phát, NHTW thực hiện “nới lỏng” tiền tệ thì tỷ trọng tiền gửi dự trữ tại NHTW sẽ giảm. Bên cạnh đó, NHTM cũng phải duy trì tiền gửi thanh toán để đảm bảo thực hiện thanh toán liên ngân hàng do NHTW đứng ra tổ chức.

Cơ cấu ngân quỹ của ngân hàng còn phụ thuộc vào phương thức quản lý vốn của NHTM. Nếu NHTM quản lý vốn phân tán, các chi nhánh thực hiện quản lý vốn độc lập thông qua hoạt động của phòng đầu mối tại từng chi nhánh, tự cân


đối trên cơ sở tuân thủ các qui định của ngành và của hệ thống về QLRR, quản lý thanh khoản và DTBB. Chi nhánh phải mở tài khoản tại NHTW địa phương để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời và an toàn vốn. Trong trường hợp này tỷ trọng tiền mặt trong tổng giá trị ngân quỹ sẽ cao. Còn nếu trong trường hợp NHTM thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung (FTP) - là cơ chế quản lý vốn từ trung tâm quản lý vốn đặt tại Hội sở chính của ngân hàng. Các chi nhánh trở thành các đơn vị kinh doanh, thực hiện mua bán vốn với Hội sở chính (thông qua trung tâm vốn), Hội sở chính sẽ mua toàn bộ tài sản Nợ của chi nhánh và bán vốn để chi nhánh sử dụng cho tài sản Có. Trường hợp này tỷ trọng tiền mặt của NHTM sẽ giảm.

(2) Chuyển dịch cơ cấu cho vay của ngân hàng thương mại

Chuyển dịch cơ cấu cho vay là sự thay đổi đổi tỷ trọng các khoản mục cho vay trên tổng dư nợ được phân chia theo những tiêu thức nhất định tại một thời điểm, một giai đoạn so với một thời điểm, một giai đoạn trong quá khứ. Do cơ cấu cho vay của NHTM rất đa dạng vì vậy chuyển dịch cơ cấu cho vay cũng được nghiên cứu theo nhiều tiêu thức và góc độ khác nhau.

- Chuyển dịch cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng:

Để phù hợp với nhu cầu và sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng cũng có sự dịch chuyển. Xu hướng kinh doanh ngân hàng trong thời gian gần đây là có sự chuyển dịch từ cho vay KHDN sang cho vay KHCN. Cùng với đó là xu hướng phát triển NHBL thì trong hoạt động cho vay có sự chuyển dịch từ cho vay KHDN lớn sang cho vay khách hàng là các DNNVV [76].

- Chuyển dịch cơ cấu cho vay theo ngành nghề kinh tế:

Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế thể hiện ở sự đa dạng hóa hay tập trung cho vay theo ngành, theo lĩnh vực của NHTM. Bên cạnh đó, nghiên cứu cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế của các NHTM có thể thấy hướng phát triển cơ cấu ngành kinh tế của quốc gia. Do vậy, căn cứ vào trình độ, định hướng phát triển ngành kinh tế, định hướng phát triển của thị trường để nhà quản trị thiết kế và chuyển dịch cơ cấu cho vay theo ngành phù hợp.

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí