người NCMT nhận được BKT sạch miễn phí từ cộng tác viên tăng từ 2,6% lên 45,3% với p < 0,01 và CSHQ: 1.642,3%.
Chương trình truyền thông thay đổi hành vi đã được triển khai rất sớm ở nước ta nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết cho người dân, đặc biệt đối tượng nguy cơ cao. Chương trình này tiếp cận ở nhiều cấp độ nhằm khuyến khích và duy trì việc thay đổi hành vi, làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho mỗi cá nhân và cộng đồng bằng cách phổ biến các thông điệp về phòng, chống HIV/AIDS qua nhiều kênh truyền thông khác nhau giúp họ có những kiến thức cần thiết về HIV/AIDS nhằm thay đổi các hành vi có hại sang những hành vi có lợi hơn.
Chương trình khuyến khích sử dụng 100% BCS đã được nhiều nước chứng minh là chương trình dự phòng lây nhiễm HIV rất hiệu quả. Người ta ước tính rằng nếu 1.000 BCS được bán và sử dụng trên thị trường, thì có thể dự phòng cho 3 trường hợp lây nhiễm HIV/AIDS. Hiện nay, Chương trình này đã mở rộng 63/63 tỉnh, thành phố và hầu hết các quận/huyện, xã/phường cả nước. Chương trình này không chỉ đơn thuần là việc cung cấp sử dụng BCS mà nó còn bao gồm nhiều thành tố từ việc nâng cao nhận thức của người dân về chương trình này, phân phối BCS, giáo dục đồng đẳng và khám chữa bệnh STIs.
Với chương trình trao đổi BKT sạch, mặc dù mới triển khai, song họat động đang đi vào nề nếp và kết quả bước đầu cho thấy có sự hỗ trợ lẫn nhau của chính những người NCMT là rất quan trọng. Vai trò các nhóm cộng tác viên, đồng đẳng viên đã giúp cho những người NCMT tích cực tham gia chương trình. Sự tham gia, hỗ trợ của nhóm đồng đẳng giúp cho người NCMT thay đổi hành vi nguy cơ dùng chung BKT trong 6 tháng qua giảm từ 33,5% (trước can thiệp) xuống 22,6 % (sau can thiệp), với p < 0,01 và CSHQ
đạt 32,6%. Vai trò của người NCMT càng được thể hiện rõ hơn khi chính họ là người tham gia vào vận động những người NCMT khác đi xét nghiệm HIV. Có lẽ điều này sẽ là bước khởi đầu cho việc hình thành mạng lưới những người NCMT tại địa phương, để họ có thể đóng góp nhiều hơn cho công tác phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng [64].
Trên thế giới, vấn đề tư vấn tâm lý xã hội, tạo công ăn việc làm cho người NCMT được xem như một nội dung quan trọng trong công tác chăm sóc hỗ trợ người NCMT. Các nghiên cứu cũng chỉ rõ vai trò và hiệu quả của những can thiệp tác động đến hành vi TCMT an toàn của người NCMT [39], [75]. Trái lại, tại Việt Nam vấn đề này chưa được gia đình, xã hội quan tâm đúng mức. Nguyên nhân của việc thực hiện kém hiệu quả trong nội dung này là do Chính quyền, xã hội và gia đình vẫn coi người NCMT là tệ nạn xã hội. Ngoài ra, còn có nhiều quan điểm trái ngược trong cộng đồng về sự cần thiết cũng như tính công bằng xã hội trong việc hỗ trợ cho người NCMT khi mà còn nhiều người cho rằng cần quan tâm đến các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng chưa được quan tâm và giải quyết hơn là hoạt động trao đổi BKT, cung cấp BCS cho người NCMT. Tuy nhiên, chương trình cũng đã đạt được những kết quả tốt. Những số liệu về tỷ lệ người NCMT bị gia đình và cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh đã giảm rõ rệt và tỷ lệ người NCMT được gia đình, cộng đồng hỗ trợ cũng tăng lên nhiều và đa số người NCMT chấp nhận tích cực tham gia chương trình [11], [43].
4.2.3. Hiệu quả tiếp cận dịch vụ của người nghiện chích ma túy
Có thể bạn quan tâm!
- Tỷ Lệ Thay Đổi Hành Vi Về Tần Suất Sử Dụng Chung Bơm Kim Tiêm Trong 6 Tháng Qua
- Nguy cơ lây nhiễm HIV và hiệu quả can thiệp dự phòng trên nhóm nghiện chích ma túy tại Quảng Nam - 16
- Tỷ Lệ Hiện Nhiễm Hiv Ở Người Nghiện Chích Ma Túy Năm 2011
- Hành Vi Làm Sạch Bơm Kim Tiêm Và Hành Vi Dùng Chung Thuốc Và Dụng Cụ Pha
- Nguy cơ lây nhiễm HIV và hiệu quả can thiệp dự phòng trên nhóm nghiện chích ma túy tại Quảng Nam - 20
- Người Cung Cấp Thông Tin Chính: (Có Thể Đánh Dấu Nhiều Hơn Một Lựa Chọn) Người Nghiện Chích
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Sau 2 năm can thiệp, người NCMT tại các địa bàn nghiên cứu đã có khả năng tiếp cận với các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS dễ dàng hơn. Qua theo dõi các chỉ số về nhận thức lây truyền HIV, các chỉ số tiếp cận chương trình BCS, BKT, VCT, STIs… cho thấy có sự thay đổi đáng kể sau can thiệp.
Mức độ hiểu biết của người NCMT về nguyên nhân và nguy cơ lây nhiễm HIV đã được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ người NCMT hiểu biết QHTD với một bạn tình chung thủy làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV tăng từ 81,5% (trước can thiệp) lên 90,2% (sau can thiệp) (với p < 0,01 và CSHQ đạt 10,7%). Tỷ lệ người NCMT hiểu biết luôn dùng BCS khi QHTD có thể phòng lây nhiễm HIV cũng tăng từ 84,0% lên 97,4% (với p < 0,01 và CSHQ: 16,1%). Tỷ lệ người NCMT hiểu biết không dùng chung BKT có thể phòng lây nhiễm HIV tăng từ 87,2% lên 94,4% (với p < 0,01 và CSHQ: 8,3%). Tỷ lệ người NCMT hiểu biết muỗi hay côn trùng đốt không lây nhiễm HIV tăng từ 70,9% lên 88,8% (với p < 0,01 và CSHQ: 25,2%). Khả năng tự đánh giá nguy cơ lây nhiễm HIV của người NCMT cũng được tăng lên đáng kể, tỷ lệ này tăng từ 48,8% trước can thiệp lên 62,1% sau can thiệp, với p < 0,01 và CSHQ là 27,3%. Về khả năng tiếp cận dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện: sau can thiệp, tỷ lệ người NCMT biết địa điểm xét nghiệm HIV là 55,1%, tỷ lệ này cao hơn so với trước can thiệp là 41,2%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01, CSHQ là 33,9%. Đặc biệt, các tỷ lệ theo dõi tiếp cận BKT, BCS cũng có sự thay đổi tích cực. Tỷ lệ người NCMT biết nơi có thể mua/nhận BKT sạch từ hiệu thuốc, đồng đẳng viên, cộng tác viên tăng lên rõ rệt: Từ đồng đẳng viên, tỷ lệ này tăng từ 1,4% (trước can thiệp) lên 38,4% (sau can thiệp); Từ cộng tác viên, tỷ lệ này tăng từ 2.5% (trước can thiệp) lên 40,9% (sau can thiệp). Hầu hết người NCMT đều biết nơi có thể nhận hoặc mua BCS, kể cả trước và sau can thiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ người NCMT biết được nơi mua/nhận BCS từ đồng đẳng viên tăng từ 13,5% trước can thiệp lên 26,0% sau can thiệp (p < 0,01 và CSHQ: 93,1%); từ cộng tác viên, tỷ lệ này tăng từ 17,7% lên 31,9% (p < 0,01 và CSHQ: 80,3%). Mặc khác, tỷ lệ người NCMT đến khám chữa bệnh STIs tại các cơ sở y tế tăng từ 25,6% trước can thiệp lên 31,6% sau can thiệp (với p < 0,05 và CSHQ là 41,0%). Tỷ lệ người
NCMT được tư vấn phòng bệnh STIs tăng từ 57,4% trước can thiệp lên 62,7% sau can thiệp, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tỷ lệ người NCMT được tư vấn sử dụng BCS để phòng lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục tăng từ 47,2% trước can thiệp lên 65,5% sau can thiệp (với p < 0,01 và CSHQ là 38,8%). Như vậy, việc bố trí các dịch vụ tại xã/phường rõ ràng đã gần gũi, thân thiện hơn đối với người NCMT. Kết quả đánh giá sau 2 năm can thiệp của Ngân hàng Phát triển Châu Á: những can thiệp đã làm thay đổi nhận thức cộng đồng đối với người nhiễm HIV. Tỷ lệ người nhiễm nhận được hỗ trợ của cộng đồng đã tăng rõ rệt so với điều tra cơ bản (từ 46,7% lên 79,1%). Nghiên cứu đánh giá hiệu quả dự án phòng lây nhiễm HIV của Nguyễn Thanh Long cho thấy, trên 80% quần thể nguy cơ cao (NCMT, PNMD) được tiếp cận thông tin truyền thông; 37 - 75% số người tiếp cân dịch vụ STIs, số người nhận được BCS, BKT trong 6 tháng qua tăng lên nhanh chóng [17], [46].
Tóm lại, sau 2 năm can thiệp, khả năng tiếp cận dịch vụ của người NCMT tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, còn một số hạn chế như: nghiên cứu chỉ tiến hành trên người NCMT, chưa đạt độ bao phủ các xã/phường trong toàn tỉnh. Do vậy, ở một vài khía cạnh, nghiên cứu này chưa thể đại diện cho tất cả người NCMT trong tỉnh Quảng Nam nói chung; một số hành vi nguy cơ trong nhóm người NCMT đã không thể khai thác, phân tích; nghiên cứu cũng có thể gặp sai số do khó khai thác các thông tin nhạy cảm hoặc người NCMT nói dối. Mặt khác, cũng cần nhấn mạnh rằng, mặc dù đã có chuyển biến tốt sau 2 năm tiến hành các hoạt động can thiệp, nhưng nhiều nội dung trong các hoạt động vẫn còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu. Các hành vi nguy cơ lan truyền HIV còn rất cao. Việc duy trì và tăng cường các biện pháp can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT và tại cộng đồng trong thời gian tới là rất cần thiết và cấp bách [1], [46].
4.2.4. Hiệu quả thay đổi hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của người nghiện chích ma túy
4.2.4.1. Sử dụng bơm kim tiêm trong lần tiêm gần đây nhất
Hành vi dùng chung BKT là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp. Trong nhiên cứu chúng tôi, tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT trong lần tiêm chích gần đây nhất giảm từ 5,6% (trước can thiệp) xuống còn 3,3% (sau can thiệp), tuy nhiên do số người NCMT dùng chung BKT trước và sau can thiệp trong lần tiêm gần đây nhất không nhiều nên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.
4.2.4.2. Sử dụng bơm kim tiêm trong 1 tháng qua
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy, hành vi người NCMT không dùng chung BKT trong 1 tháng qua có sự thay đổi đáng kể. Tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT khi TCMT trong một tháng qua giảm từ 21,2% trước can thiệp xuống còn 13,7% sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01, CSHQ là 35,2%.
Việc triển khai các hoạt động can thiệp dự phòng lây nhiễm, nhất là hoạt động truyền thông giáo dục làm tăng nhận thức đúng về nguy cơ lây nhiễm HIV qua việc sử dụng chung BKT và thực hành tiêm chích an toàn đã phần nào giải thích tỷ lệ nhiễm HIV thấp trong nhóm đối tượng nghiên cứu sau can thiệp. Kết quả nghiên cứu phù hợp với kết quả điều tra Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương tại 10 tỉnh năm 2012: Tỷ lệ dùng chung BKT trong tháng qua ở Bà Rịa-Vũng Tàu là 13,7%, Long An 24,3%, Vĩnh Phúc 16,0% [14].
Tuy nhiên, kết quả chúng tôi thấp hơn so với một số nghiên cứu trước đây. So với kết quả giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam, vòng II, năm 2009: Tỷ lệ dùng chung BKT của người NCMT trong tháng qua khá cao tại Đà Nẵng (30,2%), Đồng Nai (22,3%), TP
Hồ Chí Minh (20,0%), và Lào Cai (19,7%) [70]. Kết quả chúng tôi thấp hơn nhiều so với nghiên cứu điều tra hành vi kết hợp các chỉ số sinh học tại Khánh Hòa năm 2011, tỷ lệ dùng chung BKT ở người NCMT trong tháng qua là 53,3% [41]. Kết quả này thấp hơn nhiều so với kết quả điều tra nghiên cứu của Đinh Thị Nga tại Lâm Đồng năm 2009: Tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT là 36,9% [52].
Nghiên cứu này của chúng tôi đạt hiệu quả cao hơn vì tại tỉnh Quảng Nam phần lớn các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV luôn được sự quan tâm của các cấp Chính quyền địa phương: Công tác thông tin, giáo dục, truyền thông có sự tham gia mạnh mẽ các ban ngành, đoàn thể được tổ chức thường xuyên liên tục và sâu rộng với nhiều hình thức phong phú, đạt độ bao phủ truyền thông rộng tiếp cận đến người NCMT. Mặt khác, chương trình trao đổi BKT mới được triển khai, có sự tập trung mạnh mẽ từ công tác chỉ đạo, xây dựng mạng lưới đồng đẳng viên, cộng tác viên đến tổ chức thực hiện tại cộng đồng. Trong 2 năm can thiệp, mạng lưới cộng tác viên, đồng đẳng viên có nhiều hoạt động tích cực, có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy độ bao phủ, tính sẵn có và khả năng tiếp cận được với BKT sạch, BCS của người NCMT thông qua nhóm đồng đẳng viên và cộng tác viên là hết sức quan trọng [6], [62].
4.2.4.3. Sử dụng bơm kim tiêm trong 6 tháng qua
Một trong những biện pháp dự phòng tốt nhất để tránh lây lan HIV trong nhóm người NCMT đó là không dùng chung BKT trong tất cả các lần TCMT. Đây là điều hết sức quan trọng, bởi vì gần như không phải người NCMT nào cũng sử dụng BKT sạch khi TCMT cho tất cả các lần. Điều này không chỉ phụ thuộc vào nhận thức mà còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể như tính sẵn có của BKT, liều lượng ma tuý đế tiêm chích và bạn chích cùng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy: Tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT trong 6 tháng qua được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ này đã giảm từ 33,5% năm 2011 xuống còn 22,6% năm 2014, với p < 0,01 và CSHQ đạt 32,6%. Trong khi tại Quảng Nam, lây truyền HIV chủ yếu qua đường máu mà hầu hết do dùng chung BKT trong khi TCMT, chiếm 65,8% trường hợp nhiễm HIV. Hành vi dùng chung BKT khi TCMT chính là hành vi nguy cơ cao đóng vai trò quan trọng lây nhiễm HIV trong nhóm bạn cùng chích rồi lan sang nhóm những người NCMT khác, bạn tình và cộng đồng [61].
Hiện nay, ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương như Trung Quốc, Việt Nam, Malaixia lây nhiễm HIV chủ yếu trong nhóm nhũng người NCMT. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là người nhiễm HIV/AIDS vẫn tiếp tục TCMT và sử dụng chung BKT. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Trần Hiển và cộng sự: trong 1.519 người NCMT tại TP Hồ Chí Minh về yếu tố nguy cơ dùng chung BKT. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ nhiễm HIV tăng từ 27,0% năm 1997 lên 38,0% vào năm 1998 ở các cơ sở cai nghiện. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT tại cộng đồng cũng tăng cao hơn [7], [33].
Các kết quả nghiên cứu trên Thế giới và tại Việt Nam cho thấy nguyên nhân của tỷ lệ dùng chung BKT cao là do sự hiểu biết về HIV của người NCMT còn thấp; do sự kỳ thị của gia đình, xã hội đối với người nghiện làm cho họ luôn luôn phải tiêm chích trong tình trạng lén lút. Để thỏa mãn cơn thèm thuốc họ sẵn sàng mượn BKT của bạn chích hoặc dùng lại BKT chưa được vô trùng. Trên thực tế, khi người NCMT đến cơn nghiện, họ sẽ không còn có thời gian và đủ bình tĩnh làm sạch BKT. Hơn nữa, thực tế trên thị trường chỉ có BKT nhựa dùng một lần, nhưng họ đã dùng nhiều lần một BKT để tiết kiệm tiền. Phần đông số người NCMT đã được hướng dẫn cách làm sạch BKT nhưng hầu hết họ rất ít khi làm theo [22], [27], [40].
Tiêm chích ma túy cũng chỉ là một yếu tố nguy cơ nhưng điều quan trọng hơn là người NCMT có sử dụng chung BKT trong các lần tiêm chích ma túy không. Đây chính là đường truyền HIV trực tiếp từ người NCMT sang người NCMT khác thông qua TCMT. Các số liệu trên cho thấy mức độ trầm trọng là tình trạng người NCMT dùng chung BKT của bạn chích hoặc dùng lại BKT của người khác mà không biết bạn chích của mình đã nhiễm HIV chưa và là nguyên nhân chính lan truyền dịch HIV/AIDS ra cộng đồng [40].
4.2.4.4. Tần suất sử dụng chung bơm kim tiêm
Tần suất sử dụng chung BKT càng cao thì nguy cơ lây nhiễm HIV càng lớn. Chúng ta luôn mong muốn rằng những người thường xuyên dùng chung BKT sẽ giảm dần số lần dùng chung BKT, những người thỉnh thoảng dùng chung BKT chuyển sang dùng riêng BKT khi TCMT. Trong nghiên cứu chúng tôi, sau 2 năm can thiệp, chưa thấy có sự suy giảm về tần suất ở những người thường xuyên dùng chung BKT trong 6 tháng qua (3,3% so với 3,8%). Tuy nhiên, tỷ lệ người NCMT sử dụng chung BKT ở mức thỉnh thoảng đã giảm từ 30,2% trước can thiệp xuống còn 20,9% sau can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, CSHQ là 30,8%. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả can thiệp làm thay đổi tần suất dùng chung BKT ở nhóm người NCMT rõ rệt. Đây có thể coi là kết quả tích cực sau 2 năm triển khai can thiệp tại Quảng Nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của một số tác giả trong nước và ngoài nước đều khẳng định rằng: Tần suất sử dụng TCMT càng cao nguy cơ tiêm chích chung BKT càng lớn và có mối liên quan chặt chẽ với tỷ lệ nhiễm HIV, tần suất TCMT càng cao, nguy cơ lây nhiễm HIV cao. Một tổng quan trên gần 125 nghiên cứu tại Việt Nam và các nghiên cứu trên thế giới trong giai đoạn 2000 - 2010 đã chỉ ra