Đặc Điểm Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại


hàng duy trì lượng vốn khả dụng, tồn tại dưới hình thức: tiền mặt, tiền gửi tại NHTW và tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD khác.

- Hoạt động cho vay:

Cho vay là hình thức sử dụng vốn truyền thống - đây là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Với các nước có TTTC chưa phát triển thì nguồn cung tín dụng qua hệ thống NHTM là chủ yếu đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, cho vay cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro và rủi ro xảy ra cũng thường xuyên nhất. Khi RRTD xảy ra không chỉ ngân hàng, người gửi tiền, người đầu tư bị ảnh hưởng mà kéo theo nhiều hậu quả cho hệ thống tài chính, cũng như toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, đặt ra các yêu cầu các NHTM phải đặc biệt chú ý dành nhiều nguồn lực để quản trị các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động này.

- Hoạt động đầu tư:

Trong xu hướng đa năng hóa hoạt động, các NHTM có thể đầu tư vào các tài sản Có có khả năng sinh lời và có tính thanh khoản cao đặc biệt là đầu tư vào các chứng khoán do Chính phủ, doanh nghiệp và TCTD khác có uy tín phát hành. Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư vào các công ty con kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, vàng bạc, BĐS; hoặc góp vốn liên doanh liên kết với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính hoặc phi tài chính khác,...Tuy nhiên, nếu trong trường hợp ngân hàng đầu tư sang các lĩnh vực ngoài ngành, đặc biệt ngoài ngành tài chính ngân hàng, nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, các quan hệ sở hữu của ngân hàng trở nên phức tạp và rủi ro đầu tư của ngân hàng sẽ cao hơn. Do đó, thường NHTW các nước thường giới hạn lĩnh vực, tỷ lệ vốn đầu tư vào các lĩnh vực này. Chẳng hạn, NHTM muốn kinh doanh BĐS, thì họ phải thành lập công ty con dưới dạng công ty TNHHMTV, hay một tư cách pháp nhân khác; hoặc qui định giới hạn tỷ lệ góp vốn với doanh nghiệp liên kết. Mục đích của việc này là để dễ dàng kiểm soát và tách bạch các hoạt động, đồng thời đảm bảo an toàn cho các NHTM.

- Hoạt động sử dụng vốn khác:

Ngoài việc sử dụng vốn duy trì khả năng thanh toán, để sử dụng cho mục đích sinh lời: cho vay và đầu tư, NHTM còn sử dụng vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc trang thiết bị, công nghệ và các tài sản khác. Số


vốn đầu tư vào khoản mục này không trực tiếp sinh lời nhưng quyết định đến trình độ công nghệ, tạo ra uy tín và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

1.1.2. Cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 3

Về phương diện triết học, khái niệm “cơ cấu” được dùng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành trong một tổng thể/một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là một tập hợp các mối quan hệ liên kết hữu cơ các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Trong kinh tế học, khái niệm cơ cấu thường gắn với khái niệm về: cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu xuất khẩu,... Cơ cấu của một đối tượng được định dạng tại một thời điểm nhất định thông qua mối tương quan giữa các bộ phận cấu thành và quan hệ của từng cấu thành với đại lượng tổng. Vì vậy, để mô tả cơ cấu đối tượng, các tỷ lệ (số tương đối) được sử dụng thay cho các định mức (số tuyệt đối) [2, tr.9]

Là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, do vậy phần lớn tài sản của NHTM là các tài sản tài chính. Nó tồn tại chủ yếu dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi, giá trị chứng khoán, cho vay đối với khách hàng,... Khi xem xét mối quan hệ giữa các khoản mục hình thành từ hoạt động sử dụng vốn trong tổng tài sản của ngân hàng được phân chia theo những tiêu thức nhất định đó chính là cơ cấu sử dụng vốn của NHTM. Thực chất, cơ cấu sử dụng vốn của NHTM chính là tập hợp danh mục tài sản (Asset portfolio) của ngân hàng xét theo tỷ trọng từng khoản mục so với tổng thể. Nó phản ánh quyết định phân bổ vốn của nhà quản trị vào từng hình thức sử dụng vốn và nội bộ từng hình thức đó. Theo quan điểm của tác giả, có thể hiểu:

Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM phản ánh một tập hợp các loại tài sản hình thành từ hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng, được sắp xếp theo những tiêu thức khác nhau và cấu thành theo những tỷ trọng nhất định.

Khi ngân hàng đạt được các mục tiêu tối đa hóa tương quan lợi nhuận/rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn, điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng đã thiết lập được cơ cấu sử dụng vốn tối ưu. Trong điều kiện hoạt động của NHTM luôn chịu tác động từ nhiều các yếu tố chủ quan và khách quan thì việc thiết lập, điều


chỉnh cơ cấu sử dụng vốn nhằm đạt mục tiêu là nội dung quan trọng trong công tác quản trị ngân hàng.

1.1.2.2. Đặc điểm cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại

Trên thực tế NHTM có thể khác nhau về hình thức sở hữu (có ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước hoặc Nhà nước có cổ phần chi phối hoặc ngân hàng không thuộc sở hữu của Nhà nước...), khác nhau về chiến lược kinh doanh, về qui mô và địa bàn hoạt động,... Do đó, cơ cấu sử dụng vốn của từng NHTM cũng không giống nhau. Tuy nhiên, chúng đều có những đặc điểm cơ bản là:

* Cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong danh mục sử dụng vốn của NHTM.

Trong điều kiện ngày nay, xu hướng các ngân hàng hoạt động theo mô hình ngân hàng tổng hợp diễn ra phổ biến. Tuy nhiên, xuất phát từ chức năng, đặc thù hoạt động thì cho vay vẫn là hình thức sử dụng vốn chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của NHTM phụ thuộc chủ yếu, trực tiếp vào chất lượng cho vay. NHTM cho vay dưới nhiều hình thức, nhiều lĩnh vực, ngành nghề, khu vực địa lý khác nhau, do đó cơ cấu cho vay của NHTM cũng rất đa dạng. Tùy thuộc vào lợi thế cạnh tranh, chiến lược kinh doanh, cơ cấu cho vay của mỗi NHTM cũng khác nhau. Đồng thời, cơ cấu cho vay của NHTM sẽ phản ánh một cách khá toàn diện tình hình hoạt động: về quy mô hoạt động và về chất lượng hoạt động của mỗi ngân hàng.

* Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro

Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà đây là lĩnh vực có độ nhạy cảm cao, luôn tiềm ẩn rủi ro. Liên quan đến cơ cấu sử dụng vốn của NHTM có một số rủi ro luôn gắn liền đó là: RRTD, RRTK, RRLS và rủi ro hối đoái,... Trong đó, RRTD là rủi ro chính yếu, thường xuyên nhất, xuất phát từ vị trí quan trọng của hoạt động cho vay trong kinh doanh ngân hàng. Đối với các nước đang phát triển (như Việt Nam), các ngân hàng còn thiếu sự đa dạng trong kinh doanh các dịch vụ tài chính, hoạt động cho vay vẫn là chủ yếu và thậm chí gần như là duy nhất với các NHTM nhỏ. Vì vậy, RRTD cao hay thấp sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

Về cấu trúc thành phần, rủi ro của hoạt động cho vay có thể được chia thành hai loại căn bản: rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục. Rủi ro giao dịch liên quan đến sự hoàn trả của từng giao dịch cho vay cá biệt, còn rủi ro danh mục là


rủi ro gắn liền với một cơ cấu cho vay đang hiện hữu của ngân hàng. Rủi ro danh mục (rủi ro cơ cấu) bao gồm hai thành phần là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung như phân tích dưới đây [1, tr.8]:

- Rủi ro nội tại

Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của mỗi chủ thể vay vốn, mỗi ngành kinh tế, mỗi hình thức, phương thức cho vay. Chẳng hạn: cho vay ngành nông nghiệp có thể gặp phải rủi ro xuất phát từ thiên tai bất khả kháng; cho vay ngành công nghiệp có thể gặp phải tình trạng sản xuất thừa, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, hàng hóa bán không được,... Có thể nói rủi ro nội tại rất đa dạng phong phú và có tính tất yếu, không thể triệt tiêu vì nó thuộc về bản tính vốn có của đối tượng mà ngân hàng đầu tư. Các biện pháp của ngân hàng chỉ có thể giúp kiểm soát từ đó hạn chế nó mà thôi. Việc thẩm định kỹ lưỡng, quyết định cho vay chính xác, tránh cho vay đối với những chủ thể/ ngành/ hình thức cho vay có độ rủi ro nội tại cao, quan tâm cho vay nhiều hơn với những đối tượng có độ rủi ro nội tại thấp, có thể giúp ngân hàng tăng mức độ an toàn cho DMCV [1,tr.9]

- Rủi ro tập trung

Đây là loại rủi ro xuất phát từ sự thiếu đa dạng trong cơ cấu cho vay, đi ngược lại nguyên tắc phân tán rủi ro trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì quan niệm này, nên khi định hướng xây dựng cơ cấu cho vay, ngoài việc thiết kế tỷ trọng hợp lý của các khoản vay đảm bảo tính đa dạng, ngân hàng còn đưa ra các giới hạn an toàn so với mức vốn tự có, so với tổng dư nợ hoặc so với giá trị tổn thất của toàn danh mục sao cho thiệt hại tài chính nếu xảy ra vẫn nằm trong khả năng chịu đựng của từng ngân hàng [1,tr.10]. Nếu ngân hàng không duy trì tỷ lệ dự trữ hợp lý, hoặc có sự bất cân xứng kỳ hạn giữa tài sản với nguồn vốn đều sẽ có nguy cơ xảy ra RRTK, RRLS.

* Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM có tính linh hoạt:

Trong các hình thức sử dụng vốn của ngân hàng, ngoại trừ hình thức sử dụng vốn để mua sắm TSCĐ, công cụ dụng cụ và vật liệu giữ tỷ trọng ổn định còn các hình thức khác có tính thường xuyên biến động, đặc biệt trong hoạt động cho vay. Các khoản mục cho vay, đầu tư CK Nợ trong danh mục thường xuyên có sự di chuyển do các khoản cho vay, CK Nợ đầu tư mới hàng ngày sẽ được gia tăng và các khoản cho vay, chứng khoán đầu tư cũ sẽ lần lượt đến hạn.


Còn đối với các loại CK kinh doanh, ngân hàng sẽ thường xuyên mua vào, bán ra nhằm hưởng chênh lệch giá nếu thấy có lợi.

Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, NHTM phải điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh. Do đó, có thể nói rằng cơ cấu sử dụng vốn của NHTM có tính linh hoạt, có thể điều chỉnh thông qua các biện pháp nhất định. Khi thị TTTC phát triển thì việc điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn theo cơ cấu mục tiêu của NHTM sẽ dễ dàng hơn.

* Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM bị chi phối bởi các quy định quản lý Nhà nước:

Nguồn vốn kinh doanh của NHTM chủ yếu từ nguồn huy động từ các khách hàng trong nền kinh tế, do vậy nếu chất lượng sử dụng vốn của ngân hàng thấp sẽ kéo theo nhiều hệ lụy. Nếu RRTD là loại rủi ro thường xuyên của ngân hàng thì một loại rủi ro sẽ nguy hiểm nhất đó là RRTK. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng có tính liên kết, do vậy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng mang tính hệ thống. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống ngân hàng, với vai trò là cơ quan quan lý, NHTW mỗi nước đều ban hành những qui định, những giới hạn trong hoạt động trong đó có quy chế an toàn liên quan đến cơ cấu sử dụng vốn. Những giới hạn đó có thể là chỉ tiêu cơ bản đó là: cơ cấu sử dụng vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản, cơ cấu vốn đầu tư, góp vốn liên doanh, liên kết, giới hạn góp vốn đầu tư, giới hạn cho vay,... Thậm chí trong từng điều kiện nhất định, NHTW còn quy định cơ cấu cho vay của NHTM phải đáp ứng yêu cầu đảm bảo giới hạn cho vay đối với một số lĩnh vực, một số ngành nghề cụ thể.

* Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Chức năng cơ bản của NHTM là trung gian tín dụng. Khi thực hiện chức năng này, NHTM tiến hành huy động vốn từ nền kinh tế và sử dụng để cho vay đối với khách hàng. NHTM gia tăng cho vay đối với ngành/ lĩnh vực/ khu vực nào, sẽ tạo điều kiện cho khu vực đó phát triển. Chính vì vậy, NHTW thông qua cơ chế, chính sách của mình sẽ tác động đến hoạt động cho vay của các NHTM từ đó sẽ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, nếu NHTM tăng trưởng dư nợ cho vay “quá nóng” cho ngành nào, lĩnh vực nào đó đặc biệt nếu công tác quản trị RRTD không


tốt sẽ kéo theo hàng loạt những hệ lụy như mất cân đối cung cầu, nguy cơ nợ xấu gia tăng, từ đó gây mất an toàn cho ngân hàng cũng như toàn hệ thống.

Mặt khác, khi NHTM đầu tư vào các loại CK, trong đó có CK Nợ của Chính phủ, CK của các doanh nghiệp và các TCTD khác. Đây là kênh đầu tư gián tiếp bổ sung vốn thiếu hụt cho Chính phủ, các doanh nghiệp; hoặc thông qua hoạt động góp vốn liên kết để đầu tư trực tiếp sản xuất kinh doanh. Các hoạt động của NHTM sẽ tác động đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng từ đó ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.

1.1.2.3. Phân loại cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thương mại.

Việc nghiên cứu cơ cấu sử dụng vốn của NHTM là điều kiện phục vụ cho công tác quản trị, đánh giá chất lượng sử dụng vốn và định hướng hoạt động sử dụng vốn có hiệu quả. Các hình thức sử dụng vốn của NHTM ngày càng đa dạng, từ đó tạo nên tính đa dạng trong cơ cấu sử dụng vốn. Tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau, cơ cấu sử dụng vốn của NHTM được sắp xếp và phân chia thành các loại khác nhau.

Thông thường cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng được quy về các nhóm chính theo hình thức sử dụng vốn gồm: ngân quỹ, cho vay, đầu tư, tài sản khác. Trong nội bộ từng nhóm này lại được phân chia một cách chi tiết khác nhau, cụ thể:

* Cơ cấu ngân quỹ

Ngân quỹ là tài sản không có khả năng sinh lời hoặc mức sinh lời rất thấp nhưng nó là tài sản có tính lỏng cao nhất. Do vậy, mỗi ngân hàng đều mong muốn giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được. Tỷ trọng ngân quỹ thường khác nhau tại các ngân hàng. Thông thường ngân hàng gần trung tâm tiền tệ, tỷ lệ này thường thấp so với ngân hàng ở xa. Tỷ lệ này có xu hướng tăng trong giai đoạn kinh tế suy giảm, khi ngân hàng khó tìm kiếm được nhiều cơ hội cho vay và đầu tư [11,tr.69]. Cơ cấu ngân quỹ gồm:

- Tiền mặt

- Tiền gửi tại NHTW

- Tiền gửi trên tài khoản tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn trên tài khoản Nostro) tại các TCTD khác

Ngân quỹ được coi là khoản dự trữ sơ cấp, NHTM có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngay. Trong điều kiện TTTC phát triển, dự trữ sơ cấp có


xu hướng giảm xuống, các khoản dự trữ thứ cấp (các loại chứng khoán có tính lỏng cao) có xu hướng tăng lên.

* Cơ cấu cho vay của ngân hàng thương mại

Có thể nói tính đa dạng trong cơ cấu sử dụng vốn của NHTM chủ yếu là do tính đa dạng trong cơ cấu cho vay. Cơ cấu cho vay của ngân hàng được hình thành từ tập hợp các khoản cho vay theo từng nhóm trên cơ sở các tiêu thức phân loại khác nhau. Để xem xét cơ cấu cho vay của NHTM tại một thời điểm, người ta căn cứ vào dư nợ cho vay của ngân hàng.

- Cơ cấu cho vay theo thời hạn:

Đây là tiêu thức quan trọng khi nghiên cứu cơ cấu cho vay của ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến an toàn và khả năng sinh lời của khoản tín dụng, cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Đồng thời, thời hạn cho vay còn cho biết mối quan hệ giữa cơ cấu thời hạn của sử dụng vốn với cơ cấu thời hạn của nguồn vốn, nhằm hạn chế các loại rủi ro, đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp. Theo tiêu thức này, cơ cấu cho vay gồm:

+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm với mục đích để bù đắp vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình.

+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm (nhiều nước qui định đến 7 năm). Các khoản cho vay trung hạn được sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh,...

+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn từ trên 5 năm trở lên, cho vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng chủ yếu đầu tư các sự án mới hoặc đáp ứng nhu cầu vay tiêu dùng của KHCN [21].

- Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế:

Theo tiêu thức này, cơ cấu cho vay gồm:

+ Cho vay ngành công nghiệp;

+ Cho vay ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản;

+ Cho vay ngành thương mại, du lịch; ....

Tiêu thức này có ý nghĩa rất lớn đối với các NHTM, kể cả trong khâu hoạch định kế hoạch cũng như trong tổ chức thực hiện. Cơ cấu cho vay theo


ngành kinh tế hình thành một định hướng cần thiết cho quá trình cho vay. Những ngành nào cần tập trung, mở rộng, những ngành nào cần hạn chế cho vay sẽ được thể hiện thông qua tỷ trọng xác định của từng ngành trong tổng thể dư nợ của DMCV. Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế bộc lộ rõ quan điểm của ngân hàng: tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên chuyên môn hóa hay là đa dạng hóa danh mục. Đứng trên quan điểm hạn chế rủi ro thì DMCV theo ngành càng đa dạng càng tốt, tuy vậy, cũng cần duy trì phát triển những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.

- Cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng:

Mỗi một đối tượng khách hàng sẽ khác nhau về đặc điểm (về cơ cấu tổ chức, về mục đích sử dụng vốn, về qui mô hoạt động và khả năng trả nợ,...). Vì vậy, để định hướng cho việc đầu tư an toàn và hiệu quả, NHTM luôn có sự phân chia hợp lý tỷ trọng các khoản mục cho vay theo đối tượng khách hàng, đảm bảo sự an toàn cần thiết ở góc độ toàn danh mục. Theo đó, cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng gồm:

+ Cho vay đối với DNNN;

+ Cho vay đối với doanh nghiệp ngoài Nhà nước;

+ Cho vay khách hàng là cá nhân;

+ Cho vay đối tượng khách hàng khác.

- Cơ cấu cho vay theo tính chất bảo đảm tiền vay:

Theo tiêu thức này giúp ngân hàng đánh giá để đảm bảo tính cân đối nhằm hạn chế tổn thất khi khách hàng không trả được nợ. Bao gồm:

+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là loại cho vay mà ngân hàng cung ứng với điều kiện khách hàng vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.

+ Cho vay có bảo đảm không bằng tài sản: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng; hoặc cho vay theo chỉ định của Chính phủ, cho vay đối với một số đối tượng khách hàng có sự bảo lãnh của tổ chức, đoàn thể hoặc của chính quyền địa phương.

- Cơ cấu cho vay theo loại tiền:

Theo tiêu thức này cơ cấu cho vay được chia thành: cho vay nội tệ và cho vay ngoại tệ. Qua đánh giá cơ cấu cho vay theo loại tiền giúp nhà quản trị đánh


giá được mức độ rủi ro khi có sự biến động thị trường trong và ngoài nước, giữa tỷ giá nội tệ so với ngoại tệ.

- Cơ cấu cho vay theo mục đích sử dụng vốn:

+ Cho vay nhằm mục đích kinh doanh: Là loại cho vay đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân. Với loại cho vay này điều kiện quan trọng nhất mà ngân hàng sẽ quan tâm chính là tính hiệu quả của phương án kinh doanh/dự án đầu tư vì đây chính là yếu tố tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng.

+ Cho vay tiêu dùng: Là loại cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Nguồn thu nợ đối với các khoản cho vay tiêu dùng là thu nhập của người vay, vì vậy khi cho vay ngân hàng phải xác minh được mức thu nhập của người vay.

- Cơ cấu cho vay theo lĩnh vực đầu tư:

Cơ cấu cho vay theo lĩnh vực đầu tư thường được phân chia theo hai lĩnh vực lớn, đó là: lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực phi sản xuất. Trong mỗi lĩnh vực lại chia thành nhiều loại nhỏ. Chẳng hạn, trong cho vay lĩnh vực sản xuất thì có: khu vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại - dịch vụ,… Cho vay lĩnh vực phi sản xuất lại được chia thành: cho vay chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh CK; cho vay để đầu tư, kinh doanh BĐS; cho vay tiêu dùng. Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất cao và kéo dài, sẽ kéo là nguyên nhân gây bất ổn cho hệ thống NHTM. Đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước cũng như nhà quản trị NHTM có biện pháp và giới hạn nhằm kiểm soát dư nợ đối với lĩnh vực này.

- Cơ cấu cho vay theo tính chất thị trường:

Theo tiêu thức này, cơ cấu cho vay của NHTM sẽ gồm: cho vay trên thị trường 1 (thị trường khách hàng) và cho vay trên thị trường 2 (TTLNH). Thông thường, các khoản cho vay trên TTLNH thường có thời hạn ngắn, chi phí vay vốn cao. Do vậy, các NHTM thường chỉ vay của TCTD khác nhằm bổ sung vốn dự trữ hoặc cân đối nguồn vốn trong ngắn hạn. Qua đánh giá tương quan giữa số dư cho vay TCTD khác/giá trị vốn vay nhận từ TCTD khác sẽ đánh giá được “vị thế ròng” của NHTM trên thị trường. Thông thường, nếu NHTM ở vị thế là người cho vay trên thị trường này sẽ sẽ được đánh giá tốt hơn.


- Cơ cấu cho vay theo hình thức:

Theo tiêu thức này sẽ gồm: tỷ trọng dư nợ cho vay thông thường, tỷ trọng dư nợ cho vay theo hình thức chiết khấu công cụ chuyển nhượng, tỷ trọng dư nợ cho vay theo hình thức cho thuê tài chính, cho vay khác.

* Cơ cấu đầu tư của ngân hàng thương mại

Xét về tính chất thì cơ cấu đầu tư của NHTM sẽ gồm: Đầu tư, kinh doanh CK và đầu tư vào công ty con, đầu tư góp vốn liên doanh liên kết.

- Cơ cấu đầu tư, kinh doanh chứng khoán

+ Theo mục đích đầu tư

Chứng khoán kinh doanh: có thể là CK Nợ, CK Vốn hoặc các CK khác, được ngân hàng mua và dự định bán ra nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.

Chứng khoán đầu tư giữ đến khi đến hạn: là CK Nợ được ngân hàng mua với mục đích hưởng lãi.

Chứng khoán đầu tư sẵn sàng bán: có thể là CK Nợ hoặc CK Vốn, được ngân hàng nắm giữ với mục đích đầu tư và sẵn sàng bán, không thuộc loại CK mua vào bán ra thường xuyên nhưng có thể bán bất cứ lúc nào nếu thấy có lợi [25].

+ Theo chủ thể phát hành:

Chứng khoán Chính phủ: là Chứng khoán Nợ do Chính phủ phát hành, bao gồm tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu Kho bạc, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, công trái,...

Chứng khoán TCTD khác: có thể là các Chứng khoán Nợ, chứng khoán Vốn do các NHTM và TCTD khác phát hành.

Chứng khoán doanh nghiệp: là các CK Nợ hoặc CK Vốn do doanh nghiệp phát hành. Khi NHTM đầu tư, kinh doanh CK Nợ do doanh nghiệp phát hành, về mặt bản chất đây là khoản tín dụng NHTM cấp cho doanh nghiệp và rủi ro sẽ cao hơn so với đầu tư vào chứng khoán Chính phủ.

Bên cạnh đó, còn có thể phân chia theo các tiêu thức như thời hạn chứng khoán Nợ hoặc theo loại tiền,....

- Cơ cấu đầu tư góp vốn.

Căn cứ vào tính chất chi phối, tỷ lệ vốn góp hoạt động đầu tư của NHTM lại được chia thành:


+ Hình thức đầu tư thương mại (đầu tư danh mục vốn): là hình thức TCTD sở hữu mức vốn góp với một tỷ lệ thường từ 11% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết của doanh nghiệp nhận vốn góp trở xuống. Khoản mục tài sản này của TCTD thường xuyên có biến động, do vậy điều kiện ràng buộc đối với loại hình góp vốn, mua cổ phần này không phức tạp như hai hình thức trên. Đây thường là các khoản góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp hoạt động ngoài lĩnh vực ngân hàng - tài chính, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro như RRTK, thua lỗ, xung đột lợi ích,… (nhất là khi đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần chưa niêm yết).

+ Góp vốn vào công ty liên kết: là hình thức mà NHTM có mức sở hữu vốn thường từ trên 11-50% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết của doanh nghiệp nhận vốn góp nhưng trong nhiều trường hợp lại không nắm quyền kiểm soát.

+ Đầu tư vào công ty con: là hình thức NHTM góp vốn với tỷ lệ lớn, (theo thông lệ quốc tế thường sở hữu trên 50% VĐL hoặc vốn cổ phần) có quyền biểu quyết của doanh nghiệp nhận vốn góp, có quyền chi phối toàn bộ đối với công ty con. Các công ty con có thể tiến hành trong các lĩnh vực tài chính: NHTM, bảo hiểm, CK, vàng bạc,... hoặc các lĩnh vực khác: mua bán nợ, kinh doanh BĐS,...

Ở Việt Nam, theo Luật TCTD năm 2010, các TCTD buộc phải thành lập các công ty con để chuyên biệt hóa, độc lập hơn và giảm thiểu rủi ro ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của ngân hàng mẹ trong các lĩnh vực CK, bảo hiểm, tín dụng tiêu dùng, trung gian thanh toán, kinh doanh vàng bạc,… Khi đó, các NHTM chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần [56].

1.2.3.4. Cơ cấu sử dụng vốn khác

Bên cạnh việc sử dụng vốn cho các hoạt động trực tiếp đem lại thu nhập, NHTM còn sử dụng vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc trang thiết bị, công nghệ và các tài sản khác cho ngân hàng. Số vốn đầu tư vào khoản mục này không trực tiếp sinh lời nhưng quyết định đến trình độ công nghệ, tạo ra uy tín và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng. Theo đó, bao gồm: TSCĐ, công cụ dụng cụ, vật liệu và các tài sản khác.


1.2. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Khái niệm

“Chuyển dịch cơ cấu” là khái niệm thường được sử dụng nhiều trong nghiên cứu kinh tế, tài chính, thương mại,... PGS,TS. Nguyễn Hữu Khải (2007) khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho rằng: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác hướng tới một cơ cấu kinh tế hợp lý [19,tr.8]. Trong công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, TS. Nguyễn Tuệ Anh (2007) thì: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng các ngành hợp thành của nền kinh tế [2,tr.9]. Nghiên cứu của CIEM (2014) về tái cơ cấu ngành nông nghiệp thì: Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là quá trình thay đổi (tăng hoặc giảm) về qui mô, giá trị của các chuyên ngành sản xuất thuộc ngành nông nghiệp theo hướng thích ứng nhiều hơn với nhu cầu thị trường đồng thời phát huy được lợi thế so sánh của từng chuyên ngành [5, tr.5]. Ở lĩnh vực ngân hàng, khi nghiên cứu về “chuyển dịch cơ cấu tín dụng”, TS. Trần Thị Hồng Hạnh và các cộng sự đưa ra khái niệm: Chuyển dịch cơ cấu tín dụng là quá trình biến đổi các tỷ trọng cấu thành nên tổng thể tín dụng tại một thời điểm hoặc một giai đoạn so với một thời điểm hoặc một giai đoạn trong quá khứ [14]

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu được sử dụng để mô tả sự thay đổi về tỷ trọng các bộ phận cấu thành của đại lượng tổng. Nếu “cơ cấu” đối tượng nghiên cứu mô tả mối quan hệ “tĩnh” giữa các bộ phận cấu thành tại một thời điểm nhất định thì “chuyển dịch cơ cấu” lại mô tả mối quan hệ “động” giữa các bộ phận cấu thành đó trong đại lượng tổng được phân chia theo những tiêu thức nhất định [2,tr.11]. Cơ cấu sử dụng vốn của NHTM là kết quả của các hoạt động phân bổ, sử dụng vốn nên cũng thay đổi theo thời gian và theo giai đoạn phát triển. Sự thay đổi đó một mặt giúp NHTM đáp ứng được nhu cầu thị trường hoặc thực hiện theo các yêu cầu giám sát từ cơ quan quản lý, mặt khác nhằm phù hợp với điều kiện nội tại và chiến lược kinh doanh của ngân hàng.

Dựa trên cơ sở lý thuyết về “chuyển dịch cơ cấu” được các nhà khoa học nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau như đã đề cập, với nội dung nghiên cứu của mình, theo tác giả thì: Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM là sự thay

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022