nước ta chuyển đổi nhanh, số người hưởng BHXH ngày càng đông, đòi hỏi các chính sách bảo hiểm hưu trí phải luôn luôn được sửa đổi điều chỉnh lại cho ngày càng hoàn thiện và phù hợp với nhu cầu mới, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về BHXH.
2. Giai đoạn từ 1995 đến nay
Nghị định 12/CP (26/1/1995)
Sau quá trình thực hiện Nghị định 43/CP, cùng với những văn bản pháp luật về BHXH cộng với sự ra đời của Bộ luật lao động được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào ngày 15/6/1994 và được thực hiện từ 1/1/1995, ngoài ra Điều lệ về BHXH kèm theo nghị định 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995 cho các đối tượng hưởng BHXH là người lao động trong các thành phần kinh tế và lực lượng vũ trang mới thực sự ghi nhận những đổi mới của BHXH Việt Nam. Từ đây BHXH ở Việt Nam được chính thức thực hiện theo cơ chế thị trường.
Trên cơ sở kế thừa những điểm ưu việt của các chính sách trước đây và những thách thức đặt ra trong thời kỳ mới. Nghị định 12/CP ra đời có nhiều sửa đổi, bổ sung ngay cả trong BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng. Nhưng chế độ hưu trí vẫn đóng một vai trò rất quan trọng Nghị định 12/CP ra đời có nhiều điểm khác biệt hơn so với trước đây . Cụ thể là :
- Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc phải có
một trong các điều kiện sau :
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ bảo hiểm hưu trí - 2
- Một Số Kinh Nghiệm Rút Ra Từ Việc Thực Hiện Chế Độ Hưu Trí Ở Một Số Nước
- Chế độ bảo hiểm hưu trí - 4
- Tình Hình Thực Hiện Chế Độ Hưu Trí Của Bhxh Ở Nước Ta
- Quản Lý Đối Tượng Và Mô Hình Chi Trả Lương Hưu
- Điều Chỉnh Lại Tiền Lương Hưu Để Đảm Bảo Công Bằng Giữa Những Người
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
lên.
+ Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi mà có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, mà trong 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc 1 trong các trường hợp sau đây:
Đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại.
Đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
Đủ 10 năm công tác ở miền Nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975 hoặc ở Campuchia trước ngày 31/8/1989.
- Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương thấp hơn mức lương qui định ở trên khi có 1 trong các điều kiện sau :
+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm đến dưới 20 năm.
+ Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở
lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
+ Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc nặng nhọc đặc biệt độc hại (theo danh mục 10 Bộ lao động - Thương binh và xã hội và Bộ Y tế quy định) đã đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời).
- Đối tượng tham gia đóng BHXH để hưởng chế độ hưu trí gồm :
+ Người lao động làm trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài,
khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước ta kí kết hoặc tham gia có qui định khác.
+ Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính sự nghiệp cơ quan Đảng, đoàn thể.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp các tổ chức dịch vụ thuộc
lực lượng vũ trang.
+ Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
+ Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp, Đảng, Đoàn thể từ Trung ương tới cấp huyện.
+ Ngoài ra các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.
Qua những điều trên ta thấy đối tượng tham gia BHXH đó được mở rộng, đáp ứng nhu cầu của người lao động, khắc phục được một vài hạn chế ở các vẳn bản, chính sách trước đây.
Tuy nhiên, từ những qui định trên ta thấy vẫn còn nhiều điểm phải xem xét :
- Về điều kiện tuổi nghỉ hưu : đây là một trong những điều kiện cần đối với người lao động khi nghỉ hưu. Người lao động cần phải đạt tới một độ tuổi nhất định theo qui định mới được về nghỉ hưu. Theo điều lệ thì nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, tuỳ từng trường hợp mà tuổi về hưu có thể giảm từ 5 đến 10 năm. Những qui định này chưa thể hiện đúng mục tiêu của chế độ hưu trí là bảo hiểm tuổi già, nghĩa là người lao động phải đạt đến một độ tuổi gọi là tuổi già. Quy định chung về tuổi nghỉ hưu đói với nam là 60, nữ là 55 tuổi là chưa có cơ sở khoa học nào khẳng định được tuổi đời của nữ giới thấp hơn nam giới trong khi tuổi thọ của nữ giới lại cao hơn nam giới.
+ Việc qui định giảm tuổi về hưu đối với những người làm nghề hoặc công
việc nặng nhọc độc hại hoặc làm việc trong những khu vực có khí hậu
xấu cũng cần được làm rõ. Thực chất những người này không phải già về mặt tuổi đời mà do khả năng lao động bị giảm sút, như vậy căn cứ để xác định điều kiện về hưu phải là sự giám định suy giảm khả năng lao động chứ không phải chỉ bằng việc giảm tuổi đời.
Vì vậy, việc giảm tuổi đời cho đối tượng nghỉ hưu chỉ là thể hiện một phần ưu đãi xã hội thì không phải là nội dung vốn có của BHXH. Thực chất những người này phải nghỉ việc để hưởng trợ cấp cứu tế xã hội cho đến khi đủ tuổi sẽ được hưởng hưu mới đúng ý nghĩa của chế độ hưu trí.
+ Đối với những trường hợp bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà được giảm tuổi để hưởng chế độ hưu trí cũng chưa thể hiện đúng mục đích của chế độ hưu trí. Chế độ bảo hiểm hưu trí chỉ áp dụng cho những người già, không còn khả năng lao động nữa. Do đó, nếu chưa đạt đến một độ tuổi qui định để nghỉ hưu mà bị mất sức lao động hoặc trợ cấp tàn tật, chúng ta không nên lẫn lộn giữa các đối tượng này gây ra những vướng mắc về tiêu chuẩn chế độ mà các đối tượng được hưởng. Tuy nhiên, do thực tế chúng ta chưa xây dựng được các chế độ trợ cấp tàn tật và lại bỏ chế độ mất sức lao động vốn có trước đây nên có những trường hợp mất khả năng lao động từ 61% trở lên phải xen ghép vào chế độ hưu trí.
- Về thời gian tham gia đóng BHXH : Đây là điều kiện đủ để người lao động được quyền hưởng trợ cấp hưu trí. Quy định phải có đóng góp BHXH (phí BHXH ) là một bước tiến quan trọng trong hệ thống BHXH ở nước ta, nhờ đó mà ngân sách Nhà nước không bị thâm hụt vì phải chi phí quá lớn cho BHXH. Hơn nữa qui định phải đóng BHXH thể hiện được các mối quan hệ trong BHXH thể hiện rõ trách nhiệm của các bên khi tham gia BHXH.
Theo qui định hiện hành thì phải có thời gian đóng góp BHXH tối thiểu 15 năm trở lên. Thời gian như vậy vừa là điều kiện đủ để người lao động hưởng lương hưu, để cân bằng giữa đóng và hưởng BHXH, vừa là cơ sở để tính các mức lương cho người lao động. Tuy nhiên, thời gian đóng tối thiểu 15 năm cũng cần phải xem xét lại vì nếu đóng ít nhất 15 năm mà mức hưởng thấp nhất cũng bằng mức lương tối thiểu và thời hạn hưởng trung bình 18 năm thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của quỹ BHXH. Nếu đa số người hưởng BHXH mà chỉ phải đóng BHXH ở mức 15 năm thì quỹ dễ bị lạm chi.
- Về mức trợ cấp hưu trí : Theo qui định hiện hành nếu người nghỉ hưu có trên 30 năm đóng BHXH thì ngoài tiền lương hưu hàng tháng ra khi nghỉ hưu được nhận trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được tính từ năm thứ 31 trở đi, mỗi năm đóng BHXH thêm được nhận bằng 1/2 tháng lương bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, nhưng không quá 5 tháng. Thực tế cho thấy đa số người lao động làm việc trong điều kiện bình
thường nếu đi làm từ năm thứ 18 thì đến khi nghỉ hưu họ sẽ đóng góp trên 40 năm đối với nam và trên 37 năm đối với nữ. Thế nhưng theo qui định thì gồm 10 năm đóng BHXH sau cùng họ chỉ nhận được trợ cấp một lần tối đa cũng chỉ bằng 5 tháng tiền lương, và như vậy những người có thời gian công tác từ năm thứ 41 trở đi cũng sẽ không được hưởng quyền lợi gì mặc dù vẫn phải tham gia đóng BHXH do chưa đủ tuổi về hưu.
Đây là một điều bất hợp lý không thể hiện được nguyên tắc đóng và hưởng
trong bảo hiểm.
- Về mức độ suy giảm khả năng lao động: Theo qui định hiện hành thì một số đối tượng bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên cũng được xét hưởng chế độ hưu trí. Điều này không hợp lý vì nhiều người tuy bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên nhưng họ vẫn có thể lao động được. Vì vậy, trường hợp người lao động bị mất sức lao động trước tuổi nghỉ hưu thì nên giải quyết cho họ được hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động hoặc hưởng trợ cấp tàn tật nếu họ muốn nghỉ sớm hoặc chuyển họ sang làm những công việc khác nếu như họ vẫn có nhu cầu làm việc.
Trước đây chúng ta đã thực hiện chế độ mất sức lao động để giải quyết cho các đối tượng chưa đủ điều kiện nghỉ hưu nhưng trong quá trình thực hiện có quá nhiều sự lạm dụng, số người thực sự hưởng chế độ MSLĐ chỉ chiếm 1/3 trong số những người hưởng chế độ này. Vì vậy từ năm 1993 trở đi chế độ MSLĐ từ 61% trở lên được nghỉ việc và hưởng trợ cấp hưu chưa phù hợp với thực tế. Tuỳ thuộc vào tính chất của công việc mà có người tuy bị MSLĐ từ 61% trở lên nhưng vẫn có thể làm công việc khác phù hợp hơn. Quy định chung như vậy cho tất cả các trường hợp một mặt sẽ gây lãng phí lao động, mặt khác sẽ làm tăng chi BHXH do phải chi trả trợ cấp hưu trong một thời gian khá dài cho những đôí tượng về nghỉ hưu mà tuổi đời còn trẻ.
Trên đây là một số qui định cụ thể về chế độ hưu trí theo Nghị định 12/CP và điều lệ BHXH. Nhìn chung khi áp dụng điều lệ mới này có những bước tiến bộ rõ rệt đó là lương hưu hàng tháng cao hơn so với thực hiện theo Nghị định 43/CP
; lương hưu và trợ cấp không quá cao so với người đang làm việc. Điều này không khuyến khích người lao động nghỉ hưu sớm nhưng vẫn đảm bảo mức sống tối thiểu cho người nghỉ hưu và bảo tồn được quỹ BHXH.
Tuy điều lệ BHXH còn điểm chưa hoàn thiện vì về mặt chính sách như chế độ trợ cấp bảo hiểm hưu trí một lần không được tán thành trong công ước 102 của ILO nhưng nó vẫn mang tính khả thi đối với những người lao động về hưu trước tuổi, nếu họ cố chờ cho đến khi đủ tuổi thì trong khoảng thời gian chờ đợi họ không có thu nhập để trang trải cho những nhu cầu của cuộc sống và như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến xã hội.
Cũng trong năm 1995, cùng với việc ban hành Nghị định 12/CP (26/1/1995) về việc ban hành Điều lệ BHXH, thì chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 19/CP (16/2/1995) về việc thành lập cơ quan BHXH Việt Nam. Đây chính là mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của BHXH Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cả về cơ chế và tổ chức. Theo đó BHXH Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung ương và điạ phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh và xã hội và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Thủ tướng chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước.
Nghị định 93/CP (12/11/1998)
Việc đổi mới các chế độ chính sách BHXH theo NĐ 12/CP đã đáp ứng được nhu cầu của đông đảo tầng lớp lao động, đồng thời tạo điều kiện cho sự nghiệp BHXH cũng như bảo hiểm hưu trí phát triển. Tuy nhiên, để bắt kịp công cuộc đổi mới đất nước, BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng cần phải tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa. Nhận thấy điều này, ngày 12/11/1998 chính phủ đã ban hành NĐ 93/CP nhằm sửa đổi bổ sung một số điều trong điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ 12/CP ngày 26/11/1995. Cụ thể là :
- Đối với người lao động nghỉ hưu trước tuổi so với quy định tại Điều 25 - Điều lệ BHXH được sửa đổi bổ sung theo khoản 1 điều 1 NĐ 93/CP qui định như sau : Đối với người lao động bình thường nam đủ 55 tuổi có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm trở lên, có nguyện vọng về hưu thì được hưởng lương hưu như cách tính tại điểm a khoản 1 - Điều 27 - Điều lệ BHXH, nhưng mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH chứ không phải giảm 2% như trước đây.
Người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn theo qui định tại khoản 2, 3 Điều 26- Điều lệ BHXH thì cách tính lương hưu như qui định tại điểm a khoản 1 - Điều 27- Điều lệ BHXH, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với qui định tại các khoản 1, 2 - Điều 25 - Điều lệ BHXH thì giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH chứ không phải 2% như trước đây.
- Riêng đối với người đã có thời gian đóng BHXH theo các mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đủ 15 năm trở lên mà chuyển sang làm công việc khác đóng BHXH theo tháng, bảng lương do Nhà nước qui định có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương cấp bậc của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân làm cơ sở tính hưởng lương hưu.
- Người lao động khi nghỉ việc có đủ 3 điều kiện dưới đây thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, tỷ lệ lương hưu tính theo quy định tại điểm 1- khoản 1- Điều 27- Điều lệ BHXH, không tính giảm tỷ lệ %
+ Nam đủ 50 tuổi đến dưới 60 tuổi, nữ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi, không
phải qua giám định khả năng lao động.
+ Có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm trở lên
+ Có đơn tự nguyện nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí.
Từ khi NĐ 93/CP ra đời đã khắc phục được một số điểm tồn tại như :
- Giảm độ tuổi nghỉ hưu cho những người làm việc nặng nhọc, độc hại...phù hợp với mức suy giảm khả năng lao động.
- Cho về hưu trước tuổi khi đã đủ 30 năm đóng BHXH, có nguyện vọng muốn nghỉ. Điều này đã giúp cho một số đơn vị giảm bớt biên chế, tạo điều kiện củng cố lại, sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho gọn nhẹ nhằm nâng cao năng xuất lao động.
- Giảm bớt tỉ lệ trừ lương hưu của những người nghỉ hưu trước tuổi nhằm đảm
bảo cho người lao động đã có đủ 30 năm đóng BHXH đỡ bị thiệt thòi.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vấn đề tồn tại : đó là NĐ 93/CP ra ngày 12/11/1998 có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ban hành vì vậy những người về hưu sau ngày 28/11/1998 mới được áp dụng theo Nghị định này và chỉ bị trừ 1% mức lương bình quân nếu về hưu trước tuổi qui định. Còn những người về hưu trước 28/11/1998 thì vẫn phải tính theo mức cũ ( giảm 2%) như vậy đứng về diện công bằng xã hội thì đây là một vấn đề chưa thật công bằng; mặt khác NĐ 93/CP còn qui định đối với những người về hưu trước tuổi đã có đủ 30 năm đóng BHXH, tuổi đời của nam từ 50 đến dưới 60 tuổi và nữ từ 50 đến dưới 55 tuổi và bản thân lao động có nguyện vọng về hưu thì họ sẽ được giải quyết như qui định tại điểm a-khoản 1-điều 27 - Điều lệ BHXH.
Với những người đủ 2 điều kiện là tuổi đời và số năm tham gia đóng BHXH nhưng muốn về một lần thì giải quyết ra sao ? Điều này Nghị định không nêu rõ, do đó gây ra ít nhiều khó khăn cho cơ quan thực hiện chính sách.
Nghị định 01/2003/NĐ-CP
Qua việc thực hiện các Nghị định trên chúng ta thấy còn nhiều vấn đề vẫn chưa thực sự bao quát hết được thực tế diễn ra( về đối tượng tham gia, đối tượng đóngvà hưởng…) vì vậy, Chính phủ đã phải ban hành Nghị định số 01/CP ngày 09 tháng 01 năm 2003 nhằm chỉnh sửa, bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ12/CP ngày 26/01/1995, bổ xung một số điều của Bộ luật Lao động như sau:
-Về đối tượng tham gia:
+ Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sau:
Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước;
Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam;
Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác;
Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức trính trị, tổ chức chính trị – xã hội tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang;
Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo
dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác;
Trạm y tế xã, phường, trị trấn;
Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
Các tổ chức khác có sử dụng lao động;
+ Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức.
+ Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã.
+ Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1, khoản 3 và khoản 6 Điều này, làm việc theo hợp đồng lao có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
+ Người lao động quy định tại các khoản 1,2,3,4 và khoản 6 Điều này đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc.
+ Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.
Đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông, lâm, ngư
diêm nghiệp đã thực hiện khoán đất có quy định riêng.
- Với đối tượng hưởng :
+ Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm thì được tính bằng 45% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 3% đối với lao động nữ và 2% đối với lao động nam. Mức lương hưu hàng
tháng tối đa bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng
bảo hiểm xã hội( sửa đổi bổ xung điểm a khoản 1 Điều 27 ).
+ Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn theo quy định tại điểm a khoản1 Điều 27, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 thì giảm đi 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH( sửa đổi bổ xung điểm b khoản 1 Điều 27 ).
Riêng đối với người lao động nam đủ 55 tuổi đến dưới 60 tuổi, nữ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm trở lên, có nguyện vọng về hưu thì được hưởng lương hưu như cách tính quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27, nhưng mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi không phải giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH.
+ Ngoài lương hưu hàng tháng, lao động nữ có thời gian đóng BHXH trên 25 năm, lao động nam có thời gian đóng BHXH trên 30 năm, khi nghỉ hưu được trợ cấp một lần theo cách tính như sau: từ năm thứ 26 trở lên đối với lao động nữ, từ năm thứ 31 trở lên đối với lao động nam, mỗi năm đóng BHXH được nhận bằng một nửa (1/2) tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, nhưng tối đa không quá 5 tháng.( sửa đổi bổ xung khoản 2 Điều 27).
+ Những trường hợp sau đây được hưởng trợ cấp BHXH 1 lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH:
Người lao động nghỉ việc đã đủ tuổi nghỉ hưu hoặc suy giảm khả năng lao từ 61% trở lên do ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 Điều lệ này.
Người đi định cư hợp pháp ở nước ngoài.
Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu mà đã có đủ thời gian đóng BHXH theo quy định tại Điều 25, khoản2 và khoản3 Điều 26 Điều lệ này thì có thể chờ đến khi đủ tuổi nghỉ hưu để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng hoặc bảo lưu thời gian đóng BHXH để đến khi có điều kiện thì tiếp tục đóng BHXH.
Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu và chưa đủ tuổi thời gian đóng BHXH theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 Điều lệ này thì được cấp sổ BHXH và bảo lưu thời gian đóng BHXH để đến khi có điều kiện thì tiếp tục đóng BHXH, kể cả những người có tên