Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Theo Thủ Tục Tố Tụng Hình Sự

Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện liên quan đến QSHTT không được quy định cụ thể trong các Pháp lệnh năm 1996 và Pháp lệnh năm 1998, mà được quy định trong rất nhiều nghị định do Chính phủ ban hành. Cho tới lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 2006) mới pháp điển hóa và quy định cụ thể là TAND có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ.

Trong quá trình thực hiện chức năng điều hành và quản lý nhà nước về SHTT, các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước có những QĐHC, HVHC như: cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, quyền liờn quan, Văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN), Bằng bảo hộ giống cây trồng; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về SHTT; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm phỏp luật về SHTT... Trong trường hợp những QĐHC, HVHC đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, thì cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại TAND. Thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Cho tới nay, trải qua 10 năm thi hành pháp luật về thủ tục tố tụng hành chính, cho thấy hoạt động của Tòa hành chính được dư luận xã hội quan tâm, ủng hộ, là một bằng chứng của cải cách tư pháp, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, tăng cường dân chủ, phát huy tác dụng trong việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động quản lý Nhà nước nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung. TAND là cơ quan quan trọng nhất trong việc thẩm định tính hợp pháp của các quyết định được ban hành bởi các cơ quan thực thi QSHTT khác.

1.2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng hình sự


Bộ luật hình sự (BLHS) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999 có hiệu lực từ ngày 01-7-2000, Bộ luật này thay thế BLHS năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997. Các quy định của BLHS năm 1999 thể hiện toàn diện

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, hiệu lực quản lý của nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Theo quy định của BLHS năm 1999 thì các tội phạm liên quan đến QSHTT bao gồm: tội xâm phạm QTG (Điều 131); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội vi phạm quy định về cấp bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170); tội xâm phạm QSHCN (Điều

171) và tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271).

Việc xử lý các hành vi xâm phạm QSHTT bằng biện pháp hình sự tại TAND là hình thức xử lý nghiêm khắc nhất. Đối với các loại tội phạm này, pháp luật hình sự đã quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người chịu trách nhiệm trước pháp luật (thủ trưởng) của tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân có hành vi nguy hiểm, có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự về SHTT theo quy định tại BLHS. BLHS còn có quy định khung hình phạt khá rộng và nghiêm khắc, bao gồm hình phạt cao nhất là tử hình. Điều đó cho thấy pháp luật không chỉ nhằm mục đích trừng trị kẻ phạm tội, mà còn có tác dụng ngăn chặn xâm phạm QSHTT, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHTT, lợi ích của người tiêu dùng; góp phần làm lành mạnh, minh bạch môi trường kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Biện pháp bảo vệ QSHTT của pháp luật hình sự Việt Nam đã cơ bản phù hợp với yêu cầu của Hiệp định TRIPs và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA). Theo Hiệp định TRIPs thì luật pháp của các nước thành viên phải có các thủ tục thực thi quyền về các thủ tục hình sự; các nước thành viên phải có đầy đủ quy định pháp luật về thủ tục, hình phạt hình sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự, thủ tục cần thiết trong việc phát hiện, tố cáo, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các loại tội phạm nói chung, trong đó có các tội xâm phạm QSHTT nói riêng.

1.2.2.3. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay - 4


Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng biện pháp dân sự là việc các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích về QSHTT theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bản chất của biện pháp dân sự là thông qua việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến QSHTT tại TAND, các chủ sở hữu QSHTT không chỉ được quyền yêu cầu Toà án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHTT một cách có hiệu quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra (bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần).

Giải quyết tranh chấp về QSHTT được hiểu là việc Tòa án giải quyết những tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHTT. Giải quyết tranh chấp về QSHTT tại Toà án là cơ chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu nhất trên thế giới hiện nay. Tranh chấp phát sinh từ QSHTT với bản chất là các tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) có những đặc thù cơ bản, đó là: tính phức tạp, tính đa quốc gia, tính bảo mật cao... Bảo vệ QSHTT không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với ý nghĩa bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHTT. Quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với tác phẩm mà họ sáng tạo ra, về bản chất quyền nhân thân luôn gắn liền với tác giả và không thể chuyển giao. Quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình trong mục đích thương mại.

Pháp luật của Việt Nam ngay từ đầu đã xác định được vị trí, vai trò của TAND trong việc bảo hộ thực thi QSHTT, từ đó đặt ra nhiệm vụ xây dựng những quy trình pháp lý, thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHTT. Trước khi BLTTDS ra đời, theo quy định của Luật tổ chức TAND và các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, thì không chỉ có TAND cấp huyện mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động mà TAND cấp tỉnh cũng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Việc phân định thẩm quyền giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, như: tính chất phức tạp của từng loại vụ án; giá trị (giá ngạch) của tranh chấp; năng lực, trình độ của thẩm phán và cơ sở vật chất của Tòa án bảo đảm cho việc

giải quyết các vụ án đó.


Việc bảo vệ QSHTT được tiến hành dưới hình thức áp dụng những thủ tục, biện pháp nhất định, trong đó biện pháp dân sự chiếm một vị trí quan trọng. Điều đó được lý giải chủ yếu bởi tính dân chủ, khả năng duy trì và bảo đảm công bằng của các thiết chế của thủ tục dân sự so với các thủ tục khác. áp dụng thủ tục dân sự là con đường duy nhất để giải quyết thoả đáng vấn đề bồi thường thiệt hại đối với các hành vi xâm phạm. Thông thường, khi bị xâm phạm QSHTT của mình, chủ sở hữu quyền bao giờ cũng muốn được bảo vệ bằng cách làm sao để nhanh chóng nhất có thể chấm dứt sự xâm phạm quyền quyền tài sản và quyền nhân thân của mình do bị đơn đang thực thiện. Hành vi xâm phạm QSHTT còn gây ảnh hưởng đến tên tuổi, thương hiệu, gây hiểu lầm, nhận thức không đúng về chất lượng, giá trị, uy tín về sản phẩm, hàng hóa của chủ sở hữu quyền, đây là những thiệt hại không thể tính được bằng tiền, do vậy; chủ sở hữu quyền còn được pháp luật dân sự bảo vệ qua việc tính bồi thường thiệt hại về tinh thần khi quyền nhân thân bị xâm phạm. Xét về mặt lý thuyết, thủ tục tố tụng dân sự bảo vệ QSHTT như những quyền cá nhân hết sức thích hợp, có hiệu quả, do đó, sự lựa chọn biện pháp dân sự sẽ là sự lựa chọn khôn ngoan để đảm bảo quyền của mình. Biện pháp dân sự là biện pháp phòng ngừa có ý nghĩa lớn, là biện pháp cuối cùng nhưng là biện pháp hiếm được sử dụng ở Việt Nam. So với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự nêu trên, thì biện pháp dân sự có những thế mạnh mà hai biện pháp đó không có. Có thể luận chứng cho lợi thế của sự lựa chọn trên như sau:

- Đối với biện pháp hình sự: Nguyên đơn không có cơ hội yêu cầu áp dụng lệnh BPKCTT để ngừng hành vi vi phạm trong thời gian xét xử vụ án, bên cạnh đó yêu cầu về nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm QSHTT trong vụ án hình sự là rất cao…;

- Đối với biện pháp hành chính: Đặc thù của biện pháp này là việc Tòa hành chính trong hệ thống TAND chỉ thụ lý và giải quyết các khiếu kiện về các QĐHC, HVHC trái pháp luật của các cán bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT;

- Cuối cùng, bởi một lý do đơn giản và hợp lý, việc thực hiện quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại vốn là các quyền dân sự. Khi yêu cầu Toà án bảo vệ quyền bằng thủ tục tố tụng dân sự, sẽ hàm chứa cả việc bị đơn sẽ phải

chấm dứt hành vi vi phạm, bị đơn sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã xảy ra, bao gồm cả bồi thường thiệt hại về tinh thần.

Trên thế giới, thông thường chủ sở hữu QSHTT yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, nhất là đối với các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ. Họ lý giải một phần là bởi "bầu không khí" của thủ tục này phù hợp với việc bảo vệ các quyền tài sản của cá nhân trong giới kinh doanh, một phần là bởi các biện pháp đền bù-đặc biệt là các loại lệnh áp dụng BPKCTT, đây là biện pháp tiện lợi hơn so với việc trừng phạt khác [25, tr. 27]. Hành vi xâm phạm QSHTT là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ngoài hợp đồng, do vậy phải nhận thức đây là trách nhiệm dân sự. Không phải "vô tình" mà trong các điều ước quốc tế, trong BTA và Luật SHTT, phần lớn các điều khoản là các quy định về việc áp dụng biện pháp dân sự. Vì vậy, biện pháp dân sự cần được coi trọng, phát huy và phải được đánh giá đúng với tầm quan trọng của nó, theo quan điểm của tác giả, với những ưu điểm vốn có, biện pháp dân sự nên được nhìn nhận như là một biện pháp chủ đạo và cần được áp dụng một cách thông dụng trong việc bảo vệ QSHTT tại TAND.

1.3. Một số tiêu chí đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24-5-2005 về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" đó nhận định:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam của nhõn dõn, do nhõn dõn và vỡ nhõn dõn; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện phỏp luật; phỏt huy vai trũ và hiệu lực của phỏp luật để gúp phần quản lý xó hội, giữ vững ổn định chính trị (điểm 1 Mục I) [30].

Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT đầy đủ, có khả năng bảo đảm cho các hoạt động thương mại quốc tế, phù hợp với yêu cầu của WTO về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) là

một tất yếu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức tạp, đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong lĩnh vực QSHTT. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QSHTT ở Việt Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống pháp luật SHTT về cơ bản đạt đến trỡnh độ tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, phát huy mạnh mẽ vai trũ là phương tiện đầy hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xó hội. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của Chương trỡnh đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14-8-2003 của Thủ tướng Chính phủ). Ngoài các tiêu chí trên, thực tiễn hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay cũn được nhỡn nhận, đánh giá ở khả năng dự báo của pháp luật. Mặc dù đó đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong việc xây dựng pháp luật nội dung về bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND nói riêng, nhưng việc thực thi pháp luật về bảo vệ QSHTT ở Việt Nam chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

1.3.1. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải toàn diện


Tính toàn diện của pháp luật thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật. Nhà nước - với chức năng quản lý xã hội thông qua bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước - cần thiết chế một hệ thống pháp luật có tính toàn diện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong lĩnh vực SHTT, tính toàn diện của pháp luật cần được xem xét, đánh giá trên các bình diện: các quy phạm pháp luật đã thể chế hóa đầy đủ những quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước về bảo hộ QSHTT; các quy phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong hoạt động SHTT; các quy phạm pháp luật đó đủ để xử lý các hành vi xâm phạm về QSHTT; các quy phạm pháp luật đó đã tạo ra

cơ sở pháp lý để phòng, chống, đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm SHTT và các quy phạm pháp luật thực định đó đã được tổ chức thực thi trong thực tế. Ngoài ra, do thuộc tính của đối tượng sở hữu QSHTT, các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT phải được phân biệt với quyền sở hữu tài sản hữu hình khác, tức là các quy phạm pháp luật bảo hộ QSHTT phải thể hiện được tính đặc thù.

1.3.2. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải đồng bộ và thống

nhất


Tính đồng bộ của pháp luật được thể hiện ở khía cạnh các yếu tố tạo nên pháp

luật phải được xây dựng và phát triển trong một quy trình với một tốc độ, một thời gian chung; tính đồng bộ đó phải tạo ra sự phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm tính đồng bộ đối với hệ thống pháp luật về SHTT là điều vô cùng cần thiết, đó là sự đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách bảo hộ và thực thi QSHTT; tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về SHTT phải chứa đựng đầy đủ các quy phạm pháp luật về nội dung và hình thức; ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT sớm được áp dụng và thực thi trong đời sống xã hội.

Các quan hệ xã hội là một chỉnh thể thống nhất, do đó các quan hệ pháp luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật thể hiện ở chỗ các quy phạm pháp luật phù hợp với nhau, không mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác định ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh vực SHTT, với sự tham gia của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về SHTT, hệ thống cơ quan thực thi bảo vệ QSHTT và bên cạnh đó, QSHTT còn được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, thì việc bảo đảm được tính thống nhất là điều quan trọng. Tính thống nhất của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi: các quy định của thủ tục bảo vệ QSHTT phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều, hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các quy phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, sự thống nhất đó không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong việc xây dựng và bảo đảm quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT thống nhất với các quy phạm pháp luật tương ứng nói chung; thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong

các văn bản có hiệu lực pháp lý cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể là sự thống nhất giữa các quy định của BLDS, BLHS với Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ, Luật cạnh tranh, Luật thương mại, của BLTTDS, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) với các Nghị quyết, các Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành pháp luật; của Luật khiếu nại, tố cáo với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính…; Tính thống nhất của pháp luật còn thể hiện ở sự thống nhất của quy phạm pháp luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hóa của dân tộc.

1.3.3. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao

Pháp luật được hình thành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng phát triển theo một trật tự mà Nhà nước mong muốn thiết lập; do đó, pháp luật phải đủ sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng thiết lập một hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Chức năng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể được thực hiện khi nó được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, vì vậy pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển của kinh tế - xã hội; nếu không bảo đảm tiêu chí này thì pháp luật không những không thể phát huy tác dụng mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tính phù hợp với thực tiễn và có khả thi của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT thể hiện trên nhiều mặt: phải phù hợp với quan điểm, đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ; phải được áp dụng và tác dụng trở lại đời sống xã hội; phải bảo đảm pháp luật được thi hành và có hiệu quả; phải phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước và phù hợp với các các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên.

1.3.4. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải minh bạch và khoa học

Pháp luật về bảo vệ QSHTT minh bạch và khoa học khi các quan điểm, nguyên tắc do Nhà nước đề ra để bảo hộ và bảo vệ QSHTT phải được thể chế hóa đầy đủ trong các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đó phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ pháp lý chính xác và khoa học, trong đó phải chỉ rõ phạm vi điều chỉnh, giới hạn của

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí