Các Yếu Tố Đảm Bảo Quyền Tranh Tụng Trong Phiên Tòa Hình Sự Phúc Thẩm

được thực hiện một cách khách quan, đảm bảo được tính đúng đắn. Từ đó hạn chế việc xâm hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của người bị cáo buộc là đã có hành vi phạm tội. Trong phiên tòa HSPT để bảo đảm được quyền tranh tụng của các bên tham gia cần bảo đảm các nội dung bao gồm sau đây: Bảo đảm về chủ thể tranh tụng, bảo đảm về mặt pháp lý, bảo đảm trong khâu tổ chức thực hiện và các bảo đảm khác nữa …

Tuy nhiên, trong các biện pháp bảo đảm trên đây thì việc bảo đảm về mặt pháp lý và chứng cứ là quan trọng nhất. Đây là tiền đề và là cơ sở cho việc thực hiện các bảo đảm khác cũng như tạo điều kiện cho các bảo đảm khác phát huy được vai trò và hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tranh tụng của các bên tham gia trong vụ án HSPT.

Bảo đảm pháp lý về quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT là bảo đảm cho những người tham gia tranh tụng trong vụ án HSPT bằng các quy định của pháp luật, dựa trên các nguyên tắc của TTHS, và các nguyên tắc ấy phải được thực thi triệt để trên thực tiễn.

Trong vụ án HSPT, sự tranh tụng phản biện của các bên để làm sáng tỏ những góc khuất, những điểm mờ, những quan điểm buộc tội, quan điểm gỡ tội, những yêu cầu của các bên đã tham gia ở phiên tòa HSST trên cơ sở của kháng cáo/kháng nghị. Từ đó, tại cấp tòa này sẽ xem xét, đánh giá lại việc kháng cáo/kháng nghị có cơ sở hay không. Từ đó, cấp Tòa phúc thẩm đưa ra phán quyết trên cơ sở tranh tụng, phản biện của tất cả các bên tham gia phiên tòa.

Việc tranh tụng trong phiên tòa HSPT chính là quá trình chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp về những cáo buộc đối với bị cáo cũng như những hoạt động của các chủ thể diễn ra tại phiên tòa HSST trước đây mà bản án/quyết định của cấp Tòa sơ thẩm đã tuyên chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo/kháng nghị. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá lại tính xác thực, tính hợp pháp của các chứng cứ, cũng như các quan điểm, các lập luận truy tố của VKS mà bản án/quyết định của cấp Tòa sơ thẩm lấy làm căn cứ để tuyên bị

cáo có tội hay không có tội, chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị.

Khi thực hiện quyền tranh tụng và bảo đảm được quyền tranh tụng ấy thông qua những hoạt động tranh tụng, từ đó cấp Tòa phúc thẩm có cách nhìn khách quan, đa chiều và toàn diện hơn kể cả các quan điểm, lập luận, và những khuynh hướng đối lập của chủ thể bên buộc tội và chủ thể bên gỡ tội. Đây cũng là phương tiện góp phần để đạt được mục đích của TTHS là bảo đảm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, và bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân.

Tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng dưới những góc độ nhìn nhận khác nhau, tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, khái niệm về quyền, khái niệm về tranh tụng, khái niệm về quyền tranh tụng, khái niệm về bảo đảm quyền tranh tụng ở phiên tòa HSPT thể hiện đầy đủ bản chất và nội hàm của việc tranh tụng, tại phiên tòa này HĐXX có một cách nhìn toàn diện và bao quát hơn để trả lời cho câu hỏi: Vì sao, vì đâu mà bị cáo và các chủ thể khác liên quan đến vụ án lại kháng cáo và/hoặc: Vì sao, vì đâu mà VKS lại kháng nghị bản án. Bản án HSST còn thiếu sót chỗ nào, sai chỗ nào, chỗ nào chưa khách quan, chỗ nào cần phải làm rò vv...và vv.. Theo đó, các chủ thể tranh tụng trong phiên tòa HSPT dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa được bình đẳng đưa ra chứng cứ cũng như những lập luận, những quan điểm, những căn cứ pháp lý theo quy định của pháp luật để chứng minh cho quyền lợi của mình tại cấp Tòa phúc thẩm. Từ yêu cầu đó HĐXX cấp Tòa phúc thẩm sẽ xem xét, đánh giá và thẩm tra lại. Dựa vào việc tranh tụng công khai, dân chủ tại phiên tòa cũng như những cơ sở mà các bên đưa ra, Tòa án sẽ phán quyết có tội hay không có tội, chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị.

Như vậy, tranh tụng trong phiên tòa HSPT về bản chất là quá trình đi tìm sự thật khách quan, kết quả của việc tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền, lợi ích đến nhân thân của họ. Tuy nhiên TTHS là một quá trình phức tạp, không phải các bên tham gia đều có thể dễ dàng thực hiện được đúng và đầy đủ các quyền của mình. Trên thực tế, việc thực hiện đầy đủ các quyền này gọi chung là quyền tranh tụng, các bên tham gia phụ thuộc rất nhiều yếu tố cũng như khả năng tham gia TTHS của các chủ thể, sự hỗ trợ từ những chủ thể khác (ví dụ như NBC... chủ yếu là Luật sư bào chữa) và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường, để thực hiện được quyền tranh tụng có hiệu quả trong phiên tòa HSPT, thì các chủ thể phải nắm vững kiến thức pháp luật nhất định, phải có năng lực chủ thể, năng lực TNHS và trong những trường hợp cần thiết còn có sự giúp đỡ từ phía NBC hay những người tham gia tố tụng khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Để bảo đảm được quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT, thì Tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật TTHS khi giải quyết VAHS, đồng thời Tòa án phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng của mình.

Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng: Để đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT đi vào thực chất, khách quan và không hình thức thì cần đảm bảo một số điều kiện về chủ thể, điều kiện về pháp luật, điều kiện về cơ chế và các điều kiện khác để hoạt động tranh tụng đạt được hiệu quả thiết thực. Tranh tụng trong phiên tòa HSPT là một quá trình tranh luận bình đẳng, công khai về vụ án, về các quy định của pháp luật liên quan giữa bên buộc tội và bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác liên quan đến việc kháng cáo/kháng nghị. Thông qua hoạt động tranh tụng này sẽ làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa, góp phần vào phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm thực sự thấu tình, đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ đó công lý sẽ được thực thi.

Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh - 3

1.4. Các yếu tố đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa Hình sự phúc thẩm

1.4.1. Bảo đảm về chủ thể tiến hành tố tụng trong phiên tòa Hình sự phúc thẩm

Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội là VKS. Đại diện là KSV - Người giữ quyền công tố tại phiên tòa. Phía tranh luận đối tụng để phản biện lại các cáo buộc đó là bị cáo, NBC và các chủ thể khác có liên quan đến vụ án. Tòa án là cơ quan giữ vai trò điều phối trong suốt quá trình tranh tụng.

Chủ thể tranh tụng gồm:

- Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội là: VKS do KSV được phân công làm đại diện giữ quyền công tố tại phiên tòa; Bị hại; Người đại diện của bị hại và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại; Nguyên đơn dân sự; Cũng có quan điểm cho rằng “Nguyên đơn dân sự cũng là chủ thể có chức năng buộc tội” vì họ bị tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến thì họ phải được tranh tụng về những vấn đề liên quan đến việc buộc tội cũng như hình phạt đối với bị cáo [25]. Có quan điểm khác lại cho rằng “Nguyên đơn dân sự và đại diện của họ cũng là chủ thể có chức năng buộc tội”. Theo quan điểm riêng của tác giả thì sự tham gia của nguyên đơn dân sự chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ do hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo gây ra mà không liên quan đến việc buộc tội. Họ tham gia phiên tòa chỉ nhằm giúp HĐXX giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS mà

thôi.

- Chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội là: Bị cáo; NBC cho bị cáo; Bị đơn dân sự; Người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn dân sự; Người đại diện của pháp nhân thương mại phạm tội.

Về vấn đề này cũng có quan điểm cho rằng: Bị đơn dân sự và người đại diện cho họ cũng là chủ thể có chức năng gỡ tội [29]. Theo quan điểm của tác giả: Việc tham gia của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án HSPT xuất phát từ việc kháng cáo bản án

phần dân sự hay kháng nghị của VKS. Sự tham gia của họ chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi ích của họ chứ không liên quan gì đến việc buộc tội hay gỡ tội và họ không phải là chủ thể có chức năng buộc tội hay gỡ tội. Các chủ thể này xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau, nhưng bình đẳng như nhau về quyền trong việc đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu, cũng như những quan điểm của mình trong vụ án sơ thẩm đã xét xử trên cơ sở của việc kháng cáo

/kháng nghị.

- Chủ thể thực hiện chức năng xét xử là: Tòa án (Đại diện là HĐXX) nhân danh Nhà nước, quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, chấp nhận hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị.

- Các chủ thể khác cũng có thể tham gia phiên toà theo triệu tập của Toà án (nếu xét thấy cần thiết) để làm rò một số vấn đề có liên quan đến vụ án, gồm: ĐTV; Người làm chứng; Người giám định; Người định giá tài sản; Nhà chuyên môn; Người phiên dịch và Người chứng kiến…

Trong quá trình giải quyết vụ án HSPT, các chủ thể này đưa ra các quan điểm, luận cứ, luận chứng của mình để bảo vệ quan điểm của mình để chứng minh sự thật khách quan của vụ án theo trình tự thủ tục TTHS.

Như vậy, pháp luật tranh tụng không trao quyền cho một ai có đặc quyền, các chủ thể tham gia tranh tụng tạo đối trọng cần thiết giúp cho quá trình giải quyết VAHS được khách quan, dân chủ, minh bạch và đúng pháp luật.

Để đạt được kết quả tốt và nâng cao chất lượng tố tụng, các chủ thể tranh tụng phải được đối xử bình đẳng với nhau trong suốt quá trình tranh tụng, các chủ thể phải đảm nhận và thực hiện được đúng các chức năng tố tụng của mình, ngoài ra cũng đòi hỏi các chủ thể tranh tụng phải có trình độ năng lực chuyên môn và có những kỹ năng tranh tụng trên thực tế.

Cụ thể:

Một là, các chủ thể tranh tụng phải thực sự khách quan, bình đẳng về quyền trong TTHS. Thực tiễn ở Việt Nam, sự bình đẳng của các chủ thể thực sự chỉ được thể hiện tại phiên tòa. Trước khi xét xử, sự bình đẳng ấy còn có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các hoạt động tranh tụng. Cần phải xác nhận rằng, sự bình đẳng trong tranh tụng là tạo tiền đề cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện chức năng tố tụng của mình. Trong phiên tòa HSPT, sự bình đẳng được thể hiện trong hoạt động chứng minh, bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ để yêu cầu HĐXX xem xét, đánh giá bản án của cấp sơ thẩm một cách khách quan nhất, tránh oan sai. Khi thực hiện được như vậy, thì mới đảm bảo được quyền tranh tụng trong phiên toà HSPT.

Hai là, các chủ thể tranh tụng phải đảm nhận và thực hiện đúng chức năng tố tụng của mình. Hiện tại BLTTHS năm 2015 cũng chưa phân định rò ràng các chức năng của TTHS, đôi khi còn chồng chéo, mâu thuẫn. Do đó làm ảnh hưởng đến các hoạt động tranh tụng.

Ví dụ: Tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng”. Theo quy định này thì thể hiện Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án thực hiện cả hai chức năng đó là buộc tội và gỡ tội như vậy là khộng hợp lý.

Ba là, chủ tọa phiên tòa HSPT phải là người có kỹ năng điều khiển tốt các hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Trong phiên tòa HSPT, Tòa án phải tạo mọi điều kiện cho hoạt động tranh tụng được diễn ra công khai, bình đẳng, dân chủ, vô tư, khách quan cũng như bảo đảm cả về tài liệu, chứng cứ mới

đều được xem xét, đánh giá một cách cẩn trọng, kỹ lưỡng tại phiên tòa. Khi các bên tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án không được hạn chế thời gian tranh tụng của các bên. Có như vậy thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng và thực thi có hiệu quả.

1.4.2. Bảo đảm về mặt pháp lý

Để đảm bảo tranh tụng và quyền tranh tụng tại phiên tòa HSPT được thực hiện thực sự chất lượng cần phải có các yếu tố cần thiết và quan trọng là về pháp lý. Theo quan điểm của tác giả thì cần có các yếu tố như sau:

Một là, ghi nhận đầy đủ các nguyên tắc tố tụng và các quyền tranh tụng của các chủ thể tố tụng trong những văn bản pháp lý cao như Hiến pháp và Bộ luật, Luật. Do đó, pháp luật cũng rất cần phải cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể, rò ràng, phân định về thẩm quyền, trách nhiệm, cũng như địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng để họ được thực hiện đầy đủ các quyền tranh tụng của mình, và đảm bảo cho các chủ thể được thực hiện đầy đủ các quyền đó.

Ví dụ: Cho họ được quyền chủ động thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án, được đưa ra yêu cầu, được phản bác quan điểm đối lập để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, quyền được xét hỏi và quyền được tranh luận …

Hai là, pháp luật cũng nên quy định rò về trình tự, thủ tục tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng để việc tranh tụng được tiến hành một cách hợp pháp, khách quan trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra các yêu cầu để làm rò sự thật khách quan của vụ án.

Nếu không có sự bình đẳng, khách quan giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong tranh tụng và Tòa án không độc lập trong xét xử thì sẽ không thể có được quá trình tố tụng hiệu quả thiết thực được. Nếu có chăng chỉ là tranh tụng hình thức, thiếu hiệu quả không đảm bảo sự dân chủ cũng như quyền con

người trong TTHS.

Muốn tạo ra sự bình đẳng trong TTHS thì “Bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền bình đẳng với nhau để chứng minh quan điểm của mình là đúng và phản bác lại quan điểm của bên kia”[18.tr.22]. Sự bình đẳng đó phải được thể hiện và bảo đảm trong việc tranh tụng thì hoạt động tố tụng mới thực sự chất lượng và hiệu quả.

Hoạt động tranh tụng tại trong phiên tòa HSPT, NBC tham gia bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và các chủ thể khác có liên quan trong vụ án. Đã có những quy định bắt buộc trong một số trường hợp phải có NBC tham gia trong VAHS, tuy vẫn còn bị hạn chế về đối tượng. BLTTHS hiện hành cũng chỉ quy định một số trường hợp có khung hình phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình hoặc người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Ngoài ra vẫn còn những trường hợp khác là người yếu thế trong xã hội dưới mức khung hình phạt kể trên thì pháp luật vẫn còn bỏ ngỏ. Theo tác giả, nên chăng, cần mở rộng phạm vi là tất cả các VAHS đều có sự tham gia bắt buộc của NBC nhằm tạo điều kiện cho tranh tụng được hiệu quả, cũng như chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự được đảm bảo hơn. Sự tham gia của NBC ở tất cả các VAHS, vừa mang tính nhân đạo, vừa bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp cho họ, và vừa bảo đảm cho việc xét xử được khách quan, công minh, tránh oan sai, không làm oan người vô tội trong xét xử và cao cả hơn nữa là góp phần bảo vệ quyền con người trong TTHS.

1.4.3. Bảo đảm trong khâu tổ chức thực hiện

Yếu tố bảo đảm về khâu tổ chức, thực hiện cũng nên phân định rò trách nhiệm, quyền hạn của VKS và của Tòa án cũng như tạo điều kiện phát triển cho các tổ chức bổ trợ tư pháp phát triển và ngày càng hoàn thiện để phù hợp với cơ chế tranh tụng (như Luật sư; Giám định; Trợ giúp pháp lý…), ngoài ra cũng tạo điều kiện nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho các bên tham

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí