Trong khi đó, khả năng đẩy mạnh việc tăng số lượng người có trình độ chuyên môn là không cao. Một nguyên nhân, là nhiều người Sơn La, sau khi hoàn thành việc đào tạo chuyên môn, đặc biệt tại các cơ sở đào tạo của Trung ương ở các thành phố lớn, đã không về địa phương công tác.
Nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực có chất lượng cao của tỉnh cũng hạn chế. Thí dụ số học sinh bỏ học và lưu ban hàng năm khá cao - Xem bảng 2.1.
Bảng 2.1.: Tỷ lệ học sinh phổ thông lưu ban, bỏ học
Đơn vị: %
Năm học | |||||
2010 | 1011 | 1012 | 1013 | 1014 | |
Tỷ lệ học sinh lưu ban | 2,85 | 2,20 | 1,78 | 1,37 | 1,14 |
Tỷ lệ học sinh phổ thông bỏ học | 1,01 | 0,27 | 0,29 | 0,20 | 0,30 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Kinh Tế, Xã Hội Tỉnh Sơn La Hiện Nay Về Mức Sống:
- Thực Trạng Và Giải Pháp Tiếp Tục Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Tỉnh Sơn La Thời Gian Tới
- Nguyên Nhân Đạt Được Những Thành Tựu Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Tỉnh Sơn La Hiện Nay
- Về Công Tác Lãnh Đạo, Chỉ Đạo Ở Tỉnh Sơn La Để Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay - 10
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay - 11
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Sơn La, Niên giám thống kê tỉnh Sơn La 2014 [61, tr.419].
Về thu nhập và giải quyết việc làm cho người lao động: Nhìn chung mức thu nhập của người lao động ở Sơn La còn rất thấp; mức lương bình quân chỉ đạt 1.223.890 đồng/tháng [61, tr.460]. Tỷ lệ thất nghiệp còn cao; ở thành thị là: 1,72%; ở nông thôn là 0,03% (năm 2014) [61, tr.38]. Tình trạng thiếu việc làm diễn ra phổ biến ở cả nông thôn, thành thị và ở cả các nhóm ngành kinh tế.
Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm phát sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Thất nghiệp, thiếu việc làm còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp. Đồng thời, đối với người đã được đào tạo thì thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ làm hao mòn, mất đi kiến thức, trình độ tay nghề vốn có. Hậu quả thất nghiệp và thiếu việc làm có thể dẫn tới nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách con người. Vì vậy đòi hỏi cần phải có giải pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người dân.
Về phẩm chất đạo đức - tinh thần của người dân: Xem xét chất lượng nguồn lực không thể không nói đến đạo đức, tư tưởng, văn hóa, tâm lý, tình cảm, tính cách,... của con người. Nó thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người. Những phẩm chất tinh thần trên không chỉ bị chi phối bởi tồn tại xã hội, mà nó còn chịu ảnh hưởng dai dẳng của di sản văn hóa.
Do nhận thức, hiểu biết xã hội và kỹ năng sống của phần lớn nguồn nhân lực được hình thành chủ yếu qua tích lũy kinh nghiệm từ các hoạt động sản xuất và các hoạt động xã hội khác, và được truyền từ đời này sang đời khác trong phạm vi của một dòng họ, một cộng đồng, một dân tộc cụ thể ở nhiều vùng miền gần như khép kín tại các vùng núi cao của Sơn La. Do đó, việc giao lưu, hội nhập để nâng cao nhận thức, hiểu biết về xã hội thường hạn chế, và khó đáp ứng ngay được yêu cầu phát triển chung của xã hội. Đây là một trong những rào cản về tâm lực của nguồn nhân lực dân tộc thiểu số ở Sơn La hiện nay.
Tính năng động và thích ứng môi trường làm việc mới của nguồn nhân lực dân tộc thiểu số chưa cao. Mặc dù có tố chất cần cù, chịu khó, nhưng tính thời vụ và tự phát, tùy tiện cũng thể hiện khá rõ trong các hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Tác phong, kỹ năng và kỷ luật lao động không cao, đã tạo nên rào cản lớn trong việc phát triển về chất lượng cho nguồn nhân lực dân tộc thiểu số. Sự ỷ lại, trì trệ, tâm lý dễ làm khó bỏ, luôn bằng lòng với những gì sẵn có, thiếu ý thức phấn đấu cầu thị, chưa có ý thức học tập không thể tạo được nền tảng đạo đức - tinh thần thuận lợi cho việc lập nghiệp, lập thân và rộng hơn là tìm cơ hội phát triển cho hiện tại và tương lai.
Hệ quả nghiêm trọng hơn của những hạn chế về nguồn nhân lực trong tỉnh đó là kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh, làm cho tỉnh Sơn La ngày càng tụt hậu so với các tỉnh thành khác trong cả nước. Đặc biệt, Sơn La với đa dạng các dân tộc thiểu số sinh sống với đa dạng ngôn ngữ, thì những
hạn chế nêu trên không sớm được khắc phục rất dễ dẫn đến tâm lý tự ti trong nhân dân tỉnh. Đến khi bước thụt lùi là quá xa lại càng tốn kém về sức người, sức của, trí lực, thời gian... cho việc khôi phục chưa nói đến phát triển nguồn nhân lực.
2.1.2.2. Nguyên nhân hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La hiện nay
Thứ nhất, bất cập trong quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay tỉnh chưa có chiến lược tổng thể trong công tác xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ít nhất là đến năm 2020. Phát triển nguồn nhân lực không đồng đều, nhất là chưa chú ý khắc phục hoặc hạn chế yếu tố chia cắt và phân vùng kiểu hành chính, như giữa thành phố - thị trấn - và vùng bản làng sâu trong rừng núi, và cũng thiếu sự hợp tác và hợp lực giữa các khu vực kinh tế, giữa trong và ngoài tỉnh,... trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai, sự lạc hậu về nội dung và phương pháp trong đào tạo nguồn nhân lực
Chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề của tỉnh (và ở Việt Nam hiện nay nói chung) còn cứng nhắc theo một khuôn khổ chung cố định, thiếu sự đổi mới và linh hoạt cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn thường xuyên biến đổi và cả biến động. Từ đó thường tạo ra sự thụ động đối với người học, do nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng thực hành. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo thường bất cập với thực tiễn xã hội. Người học thường ít vận dụng những gì sau khi học, hoặc muốn làm việc được thì người học phải chấp nhận phải qua một quá trình “tự đào tạo lại” từ thực tế công tác. Vì thế gây ra tình trạng không chỉ lãng phí về tiền của, mà còn lãng phí về thời gian đối với người học,....
Ngoài ra, những vấn đề tiêu cực trong việc đào tạo bằng cấp, trong việc tuyển dụng lao động,... dẫn đến việc chất lượng đào tạo có khi chỉ là hình thức, “nhãn mác”. Mặt khác, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhất là trang bị thí nghiệm, thực hành của các cơ sở đào tạo đã thiếu, lại lạc hậu với thực tiễn sản xuất. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Tình trạng tách rời giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với cơ quan nghiên cứu - triển khai và các doanh nghiệp còn khá phổ biến.
Thứ ba, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của nguồn nhân lực
Cho đến nay, chúng ta vẫn quan niệm và tự hào “đất nước Việt Nam rừng vàng biển bạc”, mà chưa coi trọng đúng mức yếu tố con người đóng vai trò là điều kiện then chốt, không thể thiếu, vừa là động lực vừa là mục tiêu của hoạt động sản xuất nói riêng, và các hoạt động xã hội nói chung. Chính vì vậy công tác phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn chưa được định hướng rõ ràng và nhất quán theo đúng vai trò của nó. Hiệu quả từ việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa cao.
Thứ tư, đội ngũ nhân lực chất lượng cao phân bổ không đồng đều giữa các địa phương, các ngành và các thành phần kinh tế
Nguyên nhân này dẫn đến hạn chế trong việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh. Nhiều lĩnh vực thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn, quản lý do nhiều cán bộ được đào tạo chính quy, có chuyên môn lại có xu hướng chuyển ra khỏi cơ quan nhà nước và khỏi tỉnh. Một bộ phận sinh viên có thành tích học tập tốt sau khi ra trường không muốn trở về địa phương công tác.
Thứ năm, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ giáo dục trong tỉnh
Ở các trường cao đẳng, đại học, số giảng viên có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ còn quá ít. Phương thức đào tạo trong các trường chậm đổi mới, chất lượng
đào tạo còn thấp dẫn đến trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng.
Mặc dù tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải thiện rõ rệt nhưng vẫn còn tình trạng lớp học tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; như huyện Vân Hồ, huyện Sốp Cộp và huyện Bắc Yên, mỗi huyện chỉ có 1 trường trung học phổ thông [61, tr.410] thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các trường đại học.
Nhưng để xây dựng và phát triển nguồn lực con người thì cần phải huy động mọi nguồn lực khác. Qua đó, cần thấy rõ sự tác động giữa các nguồn lực luôn mang tính biện chứng để từ đó có một chiến lược phát triển cho phù hợp. Nó cũng được xem là khâu đột phá và rất quan trọng để hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội mà tỉnh đã đặt ra và thực hiện phù hợp với mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việc phát triển nguồn lực con người theo hướng đào tạo cơ bản nhằm nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động cũng là yêu cầu của xã hội, đồng thời giải quyết nạn thất nghiệp và thiếu việc làm do trình độ tay nghề không đáp ứng được so với yêu cầu của công việc.
Như vậy, việc xác định phát triển nguồn lực con người là vấn đề có tính chiến lược không chỉ nói chung chung, mà phải được nhận thức và chủ động thực hiện ở từng đơn vị, địa phương cụ thể. Hiện nay Sơn La đã xây dựng và triển khai thực hiện Đề án “Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Sơn La giai đoạn 2011 – 2020”.
2.2. Một số giải pháp tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La thời gian tới
2.2.1. Về nhận thức phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Sơn La
Thứ nhất, quán triệt nhận thức về phát triển nguồn nhân lực là một trong ba đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
Sơn La phải nhận thức rõ vai trò của nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực đối với việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, để có quyết sách đúng khi đề ra các giải pháp, để phát triển nguồn nhân lực của tỉnh.
Việc hiểu rõ về phát triển nguồn nhân lực về thực chất là phải ngày càng làm tốt hơn việc giải phóng con người. Điều này đòi hỏi phải cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: a/ tập trung trí tuệ và nguồn nhân lực cho phát triển nguồn nhân lực; b/ đồng thời, thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giữ gìn môi trường phát triển của tỉnh theo hướng ổn định, bền vững.
Vấn đề lớn nhất đặt ra cho tỉnh Sơn La không phải là sự thiếu hụt nguồn lực, mà là những thiếu sót, hạn chế trong cách nhìn nhận về giáo dục và đào tạo, là sự phấn đấu chưa đúng tầm của các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm. Do đó chưa phát huy được tất cả trí tuệ và nguồn lực của tỉnh trong phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, phải xem việc phát triển nguồn nhân lực là một ưu tiên hàng đầu của tỉnh, bao gồm việc xây dựng một hệ thống chính trị và đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội hướng vào việc giữ gìn, phát huy những giá trị chân chính của con người. Trong đó trước hết coi trọng việc phát huy tự do và nghị lực sáng tạo; ý thức kế thừa, phát huy những thành tựu của tỉnh đã giành được, và tiếp thu một cách sáng tạo những thành tựu của các địa phương khác trong nước và của văn minh nhân loại nói chung.
Phải đặt việc phát triển con người và nguồn nhân lực trong một cách tiếp cận toàn diện. Ngày nay không thể quan niệm nguồn nhân lực đơn thuần chỉ là những người làm công ăn lương, hay những người nông dân thuần túy cung cấp sức lao động cơ bắp. Và phát triển nguồn nhân lực cũng không chỉ đơn thuần giới hạn ở phát triển lực lượng lao động như lâu nay vẫn thường làm là: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến nội dung giảng dạy, đổi mới chính sách lao động, tiền lương, cải tiến hoạt động công đoàn và các đoàn thể, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân,…. Chính vì theo
“cách nghĩ, cách làm” này, nên từ một vài năm gần đây, dưới cái gọi là “xã hội hóa giáo dục” chúng ta đã cho ra đời ồ ạt nhiều trường đại học, cao đẳng, trường dạy nghề và cả các trường đào tạo ở bậc phổ thông các cấp, ngoài công lập. Chất lượng đào tạo, việc tổ chức quản lý các loại trường này, sản phẩm tạo ra,… đang là vấn đề rất bức xúc hiện nay. Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” thậm chí “thầy dởm và cả thợ cũng dởm” không còn là hiện tượng cá biệt. Phát triển nguồn nhân lực kiểu như vậy sẽ mang lại kết quả gì ? Hay vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong bộ máy công quyền hiện nay, nhằm nâng cao “quan trí” và nâng cao năng lực kỹ trị, cũng phải được đặt thành một ưu tiên so với các bộ phận khác trong nội dung phát triển nguồn nhân lực không chỉ của tỉnh Sơn La.
Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực, từ thực tế tỉnh Sơn La cho thấy, bao gồm tất cả mọi người thuộc các tầng lớp xã hội với chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau, từ những người làm những nghề giản đơn nhất, như nông dân, công nhân, nhân viên dịch vụ đến những người làm công tác chuyên môn, nhà khoa học, nhà giáo, nhà kinh doanh, chủ doanh nghiệp, nghệ sỹ, những người hoạch định chính sách, quản lý ở địa phương và đất nước,…. Tất cả họ đều nằm trong tổng thể nguồn nhân lực của địa phương và đồng thời của đất nước; trong đó từng người phải được đào tạo, phát triển để có đủ khả năng tự phát triển trong một môi trường tạo điều kiện và đòi hỏi phải tự phát triển. Phải làm sao để tất cả mọi người đều tìm được chỗ đứng và đứng đúng chỗ của mình, chịu sự sàng lọc tất yếu của việc làm, nghề nghiệp nói riêng, và đời sống xã hội nói chung, nhất là với sự tác động của kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế như hiện nay ở nước ta.
Thứ hai, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân
Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào việc giải thích và định hướng dư luận vào việc thực hiện vai trò của nguồn nhân lực trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước với tư cách là điều kiện then chốt và không thể
thiếu, vừa là động lực vừa là mục tiêu của các hoạt động sản xuất vật chất nói riêng và các hoạt động xã hội nói chung.
Ngoài ra, cũng cần tuyên truyền về vị trí chiến lược quan trọng của Sơn La về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; và là một trung tâm và động lực phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng Tây Bắc. Tuy vậy, cho đến nay, Sơn La vẫn là tỉnh có kinh tế chậm phát triển, đời sống của bộ phận không nhỏ các dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy đúng hướng nhưng chậm, vai trò động lực cho phát triển kinh tế vùng Tây Bắc còn mờ nhạt. Từ đó tuyên truyền về định hướng phát triển cho địa phương trên cơ sở khai thác, phát triển nguồn nhân lực một cách bền vững.
Thứ ba, coi trọng những yếu tố tác động đến phát triển nguồn lực con người
- Về giáo dục và đào tạo:
Giáo dục và đào tạo là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố góp phần quyết định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa giáo dục, đào tạo là con đường và giải pháp cơ bản để phát triển, phát huy nhân tố con người hay phát triển, phát huy nguồn nhân lực.
Theo quan điểm triết học, giáo dục và đào tạo là những hiện tượng đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người, ở đâu đó có con người thì ở đó có giáo dục, đào tạo. Khi nào loài người còn tồn tại, thì chừng đó còn giáo dục đào tạo. Giáo dục đào tạo đều có chung đối tượng là con người và chung bản chất là sự định hướng của thế hệ trước và sự phát triển của thế hệ sau. Chúng đều là con đường ngắn nhất, nhanh nhất bằng kinh nghiệm hiểu biết của thế hệ trước dẫn dắt thế hệ sau phát triển bỏ qua những mò mẫm không cần thiết trong cuộc đời. Giáo dục, đào tạo đều nhằm vào mục tiêu chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.