Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hiểm Xã Hội Hưu Trí Bắt Buộc

chỉ là 54,2 (nam 55,6 và nữ 52,6). Điều này dẫn đến thời gian tham gia BHXH ngắn (số năm đóng góp trung bìnhđối với nam là 28, nữ là 23), trong khi thời gian hưởng hưu trí dài, (bình quân nam hưởng 22,6 năm, nữ hưởng 27 năm) [15]. Đây chính là một trong các áp lực tạo ra gánh nặng cho quỹ BHXH.

Hai là, tỷ lệ tham gia BHXH còn thấp, độ bao phủ BHXH tăng chậm. Mặc dù, về mặt chính sách BHXH đã bao phủ toàn bộ lực lượng lao động, tuy nhiên việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc để hưởng chế độ BHHT trên thực tế còn rất hạn chế, tốc độ phát triển còn chậm. Năm 2007 số người tham gia là 8.172.502 người, đến năm 2017 là 13.591.492 người, chiếm khoảng 28,2% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động và chưa bao phủ được các đối tượng hưởng lương nhưng không theo HĐLĐ, người quản lý điều hành không hưởng tiền lương hay các khu vực nghèo cận biên giới, các doanh nghiệp siêu nhỏ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Ba là, theo Luật BHXH năm 2014 quy định để hưởng lương hưu chưa hợp lý. Theo quy định điều kiện thời gian tối thiểu 20 năm đóng BHXH để được hưởng lương hưu là quá dài, hầu như các quốc gia thường quy định thấp hơn, khoảng 10 năm. Bên cạnh đó, tỷ lệ tích lũy 2% cho 1 năm tăng thêm đóng BHXH sau khi đủ điều kiện đóng để hưởng lương hưu và mức hưởng tối đa 75% là khá cao trong khi quốc tế chỉ khoảng 1,5% cho mỗi năm tăng thêm và hưởng tối đa khoảng 60%. Với các chính sách, chế độ BHXH hiện hành sẽ dẫn đến nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn, trong khi đó việc đầu tư quỹ còn chặt chẽ chưa đem lại được hiệu quả cao.

Bốn là, vấn đề đặt ra hiện nay là tình trạng nợ BHXH vẫn đang còn diễn biến phức tạp ở nhiều doanh nghiệp, nhiều địa phương và tỉ lệ nợ vẫn còn cao. Nợ BHXH đã giảm hơn so với một số năm trước nhưng tỷ lệ nợ vẫn còn cao ở các doanh nghiệp. Công tác khởi kiện các doanh nghiệp nợ tiền đóng BHXH đã được tăng cường nhưng hiệu quả thu hồi tiền nợ BHXH chưa

cao. Việc khởi kiện đơn vị sử dụng lao động nợ BHXH của tổ chức công đoàn còn lúng túng, chưa mạnh dạn đấu tranh tính đến hết năm 2017, tổng số nợ BHXH bắt buộc là 5.735 tỷ đồng giảm 0,8% so với năm 2016 bằng 2,93% so với số phải thu. Chế tài xử lý đối với hành vi trốn đóng, nợ đóng BHXH trong cả thời gian dài chỉ dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt chưa thực sự cao, chưa đủ sức răn đe. Bộ Luật Hình sự 2015 đã bổ sung tội trốn đóng BHXH có hiệu lực từ 01/01/2018. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện phải theo từng giai đoạn, có lộ trình vì việc khởi tố hình sự tác động rất lớn đến NLĐ trong doanh nghiệp. Bởi khi doanh nghiệp bị khởi tố hình sự thì đương nhiên doanh nghiệp ngừng trệ hoạt động sản xuất, khiến NLĐ mất việc làm.

Năm là, chưa hạn chế được số người hưởng BHXH một lần hoặc nghỉ hưu sớm do suy giảm KNLĐ. Hiện nay, điều kiện nghỉ hưu sớm còn rộng rãi trong khi không kiểm soát tốt công tác giám định y khoa dẫn đến độ tuổi bình quân nghỉ hưu thấp. Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, mức suy giảm KNLĐ là căn cứ, điều kiện để hưởng BHHT hàng tháng. Việc đánh giá chính xác mức độ suy giảm KNLĐ đối với NLĐ là hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ quan BHXH giải quyết chế độ, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo đúng quy định của pháp luật về BHXH, đồng thời giúp Nhà nước quản lý và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả, quản lý và sử dụng quỹ BHXH để chi trả đúng đối tượng, đảm bảo ASXH bền vững. Tuy nhiên, số lượng NLĐ nghỉ hưu trước tuổi do suy giảm KNLĐ những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Số người hưởng BHXH một lần tiếp tục tăng so với các năm trước. Trong 10 năm từ năm 2007 đến năm 2016, trên cả nước có khoảng 5 triệu người hưởng BHXH một lần. Đây cũng là nhân tố làm giảm tỷ lệ bao phủ BHXH. Nhằm hạn chế tình trạng trên, Luật BHXH năm 2014 đã quy định chặt chẽ hơn về điều kiện nghỉ hưu trước tuổi do suy giảm KNLĐ như: tăng tỷ lệ giảm trừ lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi lên 2% thay cho 1% theo quy định trước đó,

đối với lao động nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi có từ đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì mức suy giảm KNLĐ phải từ 81% trở lên (trước năm 2016 quy định từ 61% trở lên) [17, Điều 56]. Mặc dù quy định đã nâng lên như vậy, nhưng số lao động này khi ra Hội đồng giám định y khoa đều có kết quả suy giảm KNLĐ từ 61% hoặc 81% trở lên như mong muốn của NLĐ.

Sáu là, cách tính lương hưu còn chưa hợp lý dẫn đến còn có chênh lệch khá lớn về tiền lương hưu, ảnh hưởng đến tâm lý của NLĐ. Từ 01/01/2018 Luật BHXH năm 2014 quy định thay đổi cách tính lương hưu đối với lao động nữ đã làm phát sinh sự so sánh giữa lao động nữ với lao động nam, giữa lao động nữ nghỉ sau với lao động nữ nghỉ trước thời điểm ngày 01/01/2018. Do quy định công thức tính lương hưu của nam được áp dụng nhưng có lộ trình thay đổi dần trong 05 năm còn của nữ thì áp dụng ngay trong năm 2018 nên dẫn đến một số lao động nữ nghỉ hưu năm 2018 có tỷ lệ hưởng lương hưu thấp hơn so với người có cùng thời gian đóng BHXH nghỉ hưu năm 2017 từ 1% đến 10%. Từ đó tạo ra tâm lý so sánh giữa lao động nữ và lao động nam (lao động nam chỉ giảm từ 1% đến 2%), giữa người nghỉ hưu trước và sau ngày 01/01/2018.

Bảy là, công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật đã có nhiều chuyển biến nhưng chưa tác động mạnh đến phát triển đối tượng nhất là phát triển đối tượng ở vùng cận biên giới, xã nghèo, vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp, tổ chức chưa được thường xuyên tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật về BHXH. Nguyên nhân chính là do lực lượng tuyên truyền viên, báo cáo viên về BHXH còn mỏng, kỹ năng tuyên truyền chưa chuyên sâu, mặt khác, việc thay đổi từ nhận thức sang hành vi thông qua công tác tuyên truyền cũng đòi hỏi có thời gian nhất định. Chưa có những chuyên đề tuyên truyền riêng và ưu tiên tiếp cận đối với những nhóm lao động tiềm năng như người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ

1 đến dưới 3 tháng, hay các đối tượng tiềm năng nhưng chưa thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Tám là, công tác nâng cao nghiệp vụ của cán bộ nhân viên đã được chuyển biến tích cực tuy nhiên một số cán bộ vẫn chưa có trách nghiệm trong việc học hỏi, nâng cao nghiệp vụ nhất là những cán bộ sắp về hưu. Một số khác lợi dụng công vụ, chức quyền thực hiện những hành vi nhằm chuộc lợi cho bản thân nhất là trong công tác giám định y khoa hưởng BHHT gây ảnh hưởng nghiêm trọng.

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế

Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam - 11

BHHT bắt buộc là loại hình BHXH bắt buộc mà NLĐ phải tham gia để hưởng chế độ theo quy định. Đối tượng tham gia BHHT bắt buộc rất rộng hiện nay còn mở rộng cho lao động là người nước ngoài. Tuy vậy, hiện nay công tác phát triển đối tượng tham gia BHHT bắt buộc còn gặp không ít khó khăn. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có số người tham gia bảo BHHT bắt buộc khá cao nhưng nếu so với thực tế lao động là còn khá thấp. Từ thực trạng trên, có thể nhìn nhận một số yếu tố cơ bản đã dẫn đến việc triển khai BHHT bắt buộc chưa được hiệu quả là do một số những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, thời gian qua công tác tuyên truyền, vận động, triển khai về chính sách, lợi ích của BHXH chưa được triển khai sâu rộng, thiếu đồng bộ nên phần lớn NLĐ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của các chính sách BHXHHT bắt buộc cũng như quy trình, thủ tục đăng ký khi tham gia loại hình BHXH này cho nên có không ít lao động tự thỏa thuận với công ty nhận tiền trực tiếp thay vì đóng bảo hiểm.

Thứ hai, BHXHHT bắt buộc hiện nay quy định điều kiện về thời gian tối thiểu đóng BHXH để hưởng lương hưu 20 năm còn khá dài làm cho một bộ phận NLĐ không đủ khả năng để tích lũy đủ điều kiện hưởng lương hưu trong khi điều kiện hưởng BHXH một lần được quy định một cách rộng rãi, dẫn đến số người nhận một lần có xu hướng gia tăng làm giảm diện bao phủ

BHXH.

Thứ ba, xây dựng chính sách còn hạn chế, khả năng phân tích dự báo chính sách còn bất cập, việc khảo sát, đánh giá tình hình triển khai đôi khi phản ánh chưa đúng với thực tiễn, thiếu thống nhất nên chưa dự báo được những tác động từ thực tế có thể xảy ra, gây dư luận không tốt trong xã hội.

Thứ tư, vẫn còn tồn tại một số trường hợp lạm dụng để trục lợi gây thất thoát quỹ nhất là trong hoặt động giám định suy giảm KNLĐ. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi tác phong phục vụ, chất lượng dịch vụ công đã tạo thuận lợi đối với tổ chức, cá nhân khi tiếp cận với BHXH nhưng vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn.

Thứ năm, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đang được đẩy mạnh song vẫn chưa liên thông cơ sở dữ liệu trên toàn quốc nên gây khó khăn trong việc quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, ảnh hưởng đến công tác cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu phiền hà cho NLĐ và NSDLĐ trong tham gia và thụ hưởng BHXH. Nguyên nhân là do chưa có sự đồng bộ vào hệ thống hạ tầng công nghệ, hệ thống phần mềm chuyên dùng, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của luận văn đã tập trung nghiên cứu những quy định của Luật BHXH năm 2014 về BHXHHT bắt buộc và thực trạng thực thi những quy định đó trong thực tế với các nội dung: Đối tượng tham gia, mức đóng góp hình thành quỹ, điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng, BHXH một lần. Việc nghiên cứu những quy định hiện hành được so sánh với các quy định trước đó để đưa ra những phân tích, đánh giá thực trạng quy định về BHXHHT bắt buộc hiện nay. Có thể thấy rằng, chương 2 là một bản tổng hợp thông tin tương đối đầy đủ những quy định về BHHT hiện hành theo Luật BHXH 2014 với những số liệu cụ thể để thấy được những điểm mới tiến bộ trong công tác thu và phát triển đối tượng tham gia, giải quyết và chi trả BHXHHT bắt buộc, cân đối quỹ hưu trí và vướng mắc trong quy định của chính sách. Nội dung chương 2 đã nêu rõ những kết quả đạt được trong thực tiễn tổ chức thực hiện BHXHHT bắt buộc với số liệu cụ thể như số người tham gia BHXH và số thu vào quỹ hưu trí ngày càng tăng, số người hưởng lương từ quỹ BHXH ngày càng nhiều, quỹ hưu trí có kết dư để đầu tư tăng trưởng, tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH được hạn chế.…

Trên cơ sở nghiên cứu những quy định hiện hành, chương 2 cũng đưa ra những nhận định tổng quan nhất về những thành tựu đạt được, những bất cập hạn chế và nguyên nhân của nó từ chính sách pháp luật và thực tiễn như việc điều chỉnh công thức tính lương hưu của lao động nữ không theo lộ trình như đối với lao động nam, quy định về tuổi nghỉ hưu hiện nay trong xu thế già hóa dân số có tác động đến việc đảm bảo cân đối quỹ hưu trí, điều kiện hưởng BHXH một lần còn quá rộng rãi hay công tác giám định trong suy giảm KNLĐ còn vấn đề cần chú ý...

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIÊN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM


3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Luật BHXH 2014 được ban hành đã khắc phục được hầu hết các bất cập, hạn chế của Luật BHXH 2006 về BHHT. Mặc dù, Luật BHXH 2014 mới đi vào thực hiện được một thời gian ngắn từ 01/01/2016 đến nay nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật về BHXH cũng đã bộc lộ một số bất cập liên quan đến tuổi nghỉ hưu, phát triển quỹ BHXHHT bắt buộc... Việc thực thi chính sách BHXH nói chung và BHXHHT bắt buộc nói riêng còn chưa triệt để, chưa nghiêm minh. Do đó, trong thời gian tới, cần thiết phải có hướng sửa đổi, bổ sung những quy định còn bất hợp lý để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước để BHXH nói chung và BHXHHT bắt buộc nói riêng ngày càng phát triển toàn diện hơn. Qua quá trình nghiên cứu, tôi đề xuất một vài khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về BHXHHT bắt buộc như sau:

3.1.1. Xây dựng quy định để hạn chế số lượng người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm

Như đã phân tích, thiết kế chính sách hưu trí của Việt Nam hiện nay chưa cân đối được theo nguyên tắc đóng - hưởng bởi vì trên thực tế số người về hưu trước tuổi vẫn còn nhiều đây cũng là nguyên nhân chính làm giảm độ tuổi nghỉ hưu trung bình của NLĐ. Với tình trạng như vậy, nếu không hạn chế được số người về hưu sớm trong khi tuổi thọ trung bình của người dân tăng, tuổi nghỉ hưu trung bình của NLĐ còn thấp đồng nghĩa với thời gian hưởng

lương hưu kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến quỹ hưu trí.

Do vậy cần có chính sách về tăng tỷ lệ giảm trừ lương hưu để hạn chế số lượng NLĐ muốn nhận chế độ hưu trí sớm. Có thể thực hiện theo khuyến cáo của ILO để tỷ lệ giảm trừ lên đến 5% - 6% cho mỗi năm về hưu trước tuổi. Mức tỷ lệ này tuy cao nhưng xét về lâu dài sẽ hạn chế được một số trường hợp tiêu cực trong quá trình làm thủ tục về nghỉ hưu sớm.

Về tiêu chí xét nghỉ hưu sớm cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện. Những tiêu chí xét cho việc về hưu sớm đã đề ra thì phải thực hiện thật nghiêm túc, chặt chẽ, đặc biệt là quy định về chứng nhận suy giảm KNLĐ. Nếu NLĐ đề nghị xem xét về hưu sớm do suy giảm KNLĐ thì cần xem xét xem thực sự có phải là NLĐ đó không đủ năng lực lao động hay không để ra quyết định phù hợp.

Mặt khác cần quy định chặt chẽ hơn điều kiện hưởng và giảm lợi ích khi nhận BHXH một lần như: Bỏ quy định hưởng BHXH một lần đối với trường hợp NLĐ tham gia BHXH bắt buộc sau một năm nghỉ việc mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH. Để khuyến khích NLĐ tiếp tục tham gia BHXH để hưởng lương hưu bằng các hình thức khác như bảo lưu để khi có điều kiện tiếp tục tham gia hay chuyển sang hình thức BHXH tự nguyện để hưởng chế độ BHHT.

3.1.2. Xây dựng quy định các khung bậc với những điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội cụ thể để hưởng bảo hiểm hưu trí theo hướng linh hoạt cho các đối tượng

Như đã phân tích, hiện nay điều kiện tối thiểu về thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu của chúng ta khá dài 20 năm nên một bộ phận NLĐ không đủ điều kiện để tích lũy hoặc tâm lý chờ đợi lâu dẫn đến muốn nhận BHXH một lần, điều này đồng nghĩa với việc họ rời khỏi hệ thống và làm giảm diện bao phủ BHXH, ảnh hưởng đến mục tiêu ASXH bền vững của

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí