Chế độ bảo hiểm hưu trí - 4


- Cơ sở để tính lương hưu hàng tháng là lương chính và phụ cấp thâm niên( nếu có ) ở tháng cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Trong trường hợp sức khoẻ giảm sút hoặc do yêu cầu công tác phải chuyển sang công tác khác hoặc hưởng lương thấp hơn mức cũ thì lấy mức lương cao nhất trong 10 năm trước khi nghỉ hưu.

- Về mức trợ cấp một lần trước khi nghỉ hưu tính trên tiền lương chính cộng với tất cả các khoản trợ cấp đang hưởng của công nhân viên chức và quân nhân sau thời gian nghỉ nguyên lương. Cụ thể là :

+ Có đủ 25 năm công tác được hưởng trợ cấp 2 tháng lương

+ Có đủ 30 năm công tác được hưởng trợ cấp 3 tháng lương

+ Có đủ 35 năm công tác được hưởng trợ cấp 4 tháng lương

Lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác, nữ có đủ 25 năm công tác thì được tính bằng 75% lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có) ngoài ra cứ thêm 1 năm công tác được tính thêm 1% nhưng tối đa không quá 95% lương chính và phụ cấp thâm niên.

Như vậy, việc thực hiện chế độ hưu trí theo Nghị định này về cơ bản cũng giống như giai đoạn trước đó là còn nhiều hạn chế về tuổi đời, hệ số, phạm vi thực hiện. Cụ thể là :

- Phương pháp tính thời gian quy đổi tuy có nhiều điểm chặt chẽ song đã gây ra một số vướng mắc cho người lao động trong việc dò tìm hồ sơ khi về nghỉ hưu. Việc tính thời gian quy đổi đôi khi gây ra sự mất cân đối.

- Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu trung bình vẫn còn thấp do được cộng cả hệ số ưu đãi xã hội về thời gian và năm làm việc thực tế thành số năm được nhận lương hưu. Mặt khác lại còn chế độ ưu đãi với những đối tượng có sức khoẻ giảm sút từ 18% trở lên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

- Phạm vi thực hiện chế độ vẫn còn hạn hẹp, chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước, chiếm xấp xỉ 12% tổng số lao động của cả nước nhưng lại rất tràn lan. Chế độ bị lẫn lộn giữa bảo hiểm và ưu đãi. Cơ quan quản lý không thống nhất bao gồm cả Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ Y tế phụ trách việc giám định khả năng lao động. Còn xét một cách tổng hợp để cho công nhân viên chức về nghỉ mất sức lao động hoặc về hưu, do các cơ quan xí nghiệp, các bộ ngành, các đoàn thể các cơ quan đảng đoàn thể chính quyền và các cấp ra quyết định cơ quan phụ trách theo dõi lại không ký quyết định cho nghỉ


Chế độ bảo hiểm hưu trí - 4

hưu là điều bất hợp lý. Mặt khác giữa thu với chi không gắn liền với nhau, phân tán, nhiều chỗ gây ra tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết cho người lao động về hưu đúng chế độ chính sách hiện hành.

- Tỷ lệ trợ cấp hưu so với lương cơ sở có mức cao nhất là 95% là một mức quá cao, không thực tế. Trên cơ sở cân bằng thu chi, ở cùng một thời điểm, tiền thu BHXH là từ những người đang đóng BHXH phải đáp ứng được việc chi trả cho những người đang hưởng trợ cấp hưu trí trong cùng thời gian đó. Song số người lao động chỉ bằng hơn 4 lần số người đang hưởng trợ cấp trong cùng thời gian. Tỷ lệ nộp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động là 20% vậy nếu xét về tổng số, số tiền thu BHXH không đủ để chi cho tỷ lệ trợ cấp 95% lương của chế độ hưu trí không kể còn phải chi trả một số chế độ khác như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Do vậy, ngân sách nhà nước luôn phải bù thiếu, chính vì lẽ đó mà cần phải hạ thấp tỷ lệ trợ cấp đối với những người về hưu .

- Điều kiện hưởng chế độ hưu trí còn lệ thuộc quá nhiều vào yêu cầu chính trị của từng thời kỳ, còn bị chi phối bởi chủ trương tinh giảm biên chế... Cho nên số người về hưu trước tuổi còn rất cao ( trên 80% ) thậm chí có người về hưu ở độ tuổi 40, khi về hưu có thời gian hưởng lương hưu rất dài, có thể có thời gian hưởng nhiều hơn cả thời gian công tác. Trong khi đó tiền đóng BHXH là 5% chỉ bằng một phần nhỏ trong tỷ lệ trợ cấp hưu trí không kể trong quá trình công tác được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... và sau này còn chế độ tử tuất. Trong khi đó những người về hưu đủ tuổi, có thời gian công tác lâu dài lại được hưởng hưu ngắn hơn do có thể họ chết sớm. Tất cả những điều đó làm giảm ý nghĩa kinh tế cũng như xã hội chế độ hưu trí. Do vậy làm cho thiếu công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ

- Mức chi trả trợ cấp hưu trí nói chung là thấp, bình quân là 52.600đ /tháng/ người, tiền lương hưu thấp nhất là 52.000 đ/tháng / người ( chưa kể bù giá). Nếu so với năm 1985 tiền lương hưu danh nghĩa cuối năm 1991 tăng 209,75 lần trong khi chỉ số giá cả tăng 536,8 lần cho nên tiền lương hưu thực tế chỉ còn dưới 38% so với tháng 9/1985.

- Ngoài ra đối tượng tham gia đóng BHXH theo NĐ 236/HĐBT vẫn chỉ bao

gồm công nhân viên chức Nhà nước mà không có một phần đông đảo


người lao động ở các đơn vị kinh tế khác. Trong khi các đơn vị kinh tế phi Nhà nước đang ngày càng phát triển như: Công ty liên doanh, công ty TNHH, tư nhân... Đây là đối tượng rất lớn mà BHXH cần phải khai thác.

Như vậy, trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1993 chính sách và hệ thống BHXH được tổ chức thực hiện dựa trên các quy định trong nghị định 218/CP và NĐ 236/HĐBT và một số quyết định khác của Nhà nước. Thời gian này do ảnh hưởng của hệ thống chính sách bao cấp cũ nên đã bộc lộ những mặt hạn chế như: phạm vi đối tượng hẹp, sử dụng thời gian quy đổi quá lạm dụng, quỹ BHXH không phát huy được vai trò là xương sống của cả hệ thống, mức trợ cấp hưu trí không bảo đảm ổn định cuộc sống cho các đối tượng, chưa có quan hệ đóng BHXH với hưởng BHXH mà chỉ có quan hệ hưởng BHXH với tiền lương. Chế độ hưu trí bị chi phối bởi nhiều chính sách xã hội khác và tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH phân tán, hành chính quan liêu...

Như vậy, các chính sách chế độ BHXH hiện tại không còn phù hợp nữa, nó

mang trong mình rất nhiều nhược điểm, gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong công tác quản lý và sử dụng lao động, đặc biệt không đáp ứng được yêu cầu của cơ chế kinh tế nhiều thành phần và không bảo đảm được quyền lợi của người lao động, sức lao động trong cơ chế thị trường đã trở thành hàng hoá. Vì vậy đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng là một đòi hỏi tất yếu khách quan và cần phải làm ngay cho phù hợp với tình hình thực tế hiện tại.


Nghị định 43/CP và chế độ hưu trí

Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, cơ chế hoạt động của BHXH cũ không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có sự đổi mới. Trong bối cảnh xí nghiệp quốc doanh gắn với thị trường hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn vốn được giao, đồng thời tự trang trải chi phí, tự phát triển và nộp nghĩa vụ với NSNN thì bảo hiểm hưu trí cũng phải tự tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước, hoạt động độc lập, tự hạch toán lấy thu bù chi, sự hỗ trợ của NSNN chỉ là một phần nhỏ. Với việc phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, các loại hình doanh nghiệp ngày càng được mở rộng, sự chuyển dịch lao động và quan hệ lao động cũng có những thay đổi. Chính vì vậy, cùng với đội ngũ CNVC Nhà nước còn có hàng chục triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy, bảo hiểm cho mọi người lao động cần được mở rộng, thống nhất, bình đẳng, đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng đóng ở mức nào hưởng ở mức đó, giảm bớt gánh nặng cho NSNN.


Trước những vấn đề bức thiết đặt ra trong công cuộc đổi mới này để BHXH trở thành một chính sách rộng rãi thì cần phải có những đổi mới và hoàn thiện là việc làm hết sức cấp thiết, theo các phương hướng sau:

- Đổi mới phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng đối với mọi người lao động tham gia đóng BHXH có ý nghĩa là đối tượng tham gia đóng BHXH phải được mở rộng, không có sự phân biệt theo khu vực và thành phần kinh tế giữa trong và ngoài quốc doanh. Sự bình đẳng này phải được quy định và bảo đảm bởi chế tài trong các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã hội. Theo đó người lao động được hưởng chi trả BHXH trên cơ sở mức đóng góp và thời gian đóng BHXH.

- Đổi mới để bảo đảm công bằng trong quan hệ về bảo hiểm xã hội. Vậy BHXH phải được tổ chức và hoạt động tập trung độc lập và thống nhất trong phạm vi toàn quốc, phải đổi mới về tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, hình thành cơ quan BHXH tập trung. Thành lập cơ quan quản lý BHXH độc lập riêng biệt và thống nhất từ trên xuống đồng thời tách chính sách BHXH ra khỏi các chính sách xã hội khác để bảo đảm mỗi chính sách thực hiện đúng chức năng của nó.

- Quỹ BHXH phải độc lập với ngân sách Nhà nước đồng thời thực hiện

nguyên tắc hạch toán độc lập.

Với các phương hướng đổi mới như trên thì ngày 22/06/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP. Nghị định này đổi mới về cơ bản hệ thống các chế độ BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng cho phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Từ khi Nghị định ra đời đã có những thay đổi rõ rệt, thể hiện:

- Nghị định 43/CP ra đời đã xoá bỏ việc tính thời gian theo hệ số quy đổi cho người lao động khi về nghỉ hưu, người lao động khi đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên và tuổi đời đủ 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ thì được nghỉ hưu và hưởng lương hưu hàng tháng. Ngoài ra nếu khi đơn vị có nhu cầu và người lao động tự nguyện tiếp tục làm việc thì tuổi đời không quá 65 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.

- Đã thay đổi điều kiện thời gian công tác bằng thời gian đóng BHXH để tính lương hưu, tránh được tình trạng người lao động về hưu sớm do việc quy đổi thời gian công tác. Điều này làm cho người lao động có trách nhiệm hơn đối với chính bản thân họ.


- Về mức hưởng, người lao động được hưởng một khoản trợ cấp trước khi nghỉ hưu tuỳ theo thời gian và mức đóng bảo hiểm xã hội, khoản trợ cấp một lần này áp dụng với :

+ Người có từ 20 năm đến dưới 30 năm đóng bảo hiểm được trợ cấp

1 tháng lương.

+ Người có từ 30 năm đến dưới 35 năm đóng BHXH được trợ cấp 2 tháng lương .

+ Người có trên 35 năm đóng BHXH được trợ cấp bằng 3 tháng lương

Đối với người làm việc trong khu vực Nhà nước thì tiền lương tính trợ cấp một lần là tiền lương của tháng trước khi nghỉ hưu bao gồm lương theo cấp bậc, chức vụ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực.

Đối với người làm việc ngoài khu vực nhà nước thì tiền lương để trợ cấp một

lần khi nghỉ hưu tính theo lương đóng BHXH bình quân.

- Lương hàng tháng thấp nhất không dưới mức lương tối thiểu của công nhân viên chức nhà nước, cao nhất bằng 75% mức lương bình quân của 10 năm trước khi về hưu và được tổ chức BHXH đài thọ về bảo hiểm y tế.

- Trên cơ sở năm đóng BHXH và mức tiền lương bình quân đóng BHXH ta tính mức trợ cấp một lần và mức lương hưu hàng tháng cho công nhân viên chức nhà nước như sau:

+ Mức trợ cấp một lần: Cứ mỗi năm đóng BHXH được hưởng trợ cấp bằng một tháng tiền lương bình quân. Trong đó tiền lương bình quân được tính bằng lương bình quân của 10 năm trước khi nghỉ hưu ( đối với người làm việc trong khu vực nhà nước ).

ti * li

L =

ti

Trong đó : L : lương bình quân

ti : khoảng thời gian i

li : lương tương ứng với khoảng thời gian i

ti = 10 * 12 = 120 tháng

Trường hợp mà công nhân viên chức Nhà nước nghỉ hưu mà tiền lương đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu có cả thời gian trước ngày thi


hành chế độ tiền lương mới 1/4/1993 thì được chuyển sang chế độ tiền lương

mới để tính.

+ Mức lương hưu hàng tháng: Người lao động có đủ 20 năm đóng BHXH thì hưởng lương hưu bằng 55% tiền lương đóng BHXH bình quân, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% nhưng tối đa chỉ bằng 75% tiền lương đóng BHXH bình quân. Mức lương hưu thấp nhất bảo đảm không thấp hơn mức lương tối thiểu( 120.000 đ/tháng ) nếu tiền lương hưu thấp hơn mức đó thì phải bù cho bằng mức đó.

Ngoài ra, trong NĐ này, chế độ mất sức lao động đã được tách ra và có quy

định riêng.

Như vậy, NĐ 43/CP ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của

những văn bản trước đó là :

- Về tuổi đời: Trong giai đoạn này, tuổi về hưu đã được thực hiện một cách

nghiêm túc và chặt chẽ, hầu hết người về hưu đã đúng tuổi quy định.

- Về đối tượng và phạm vi đã đáp ứng được nhu cầu to lớn về BHXH của bộ phận người lao động khác, đối tượng tham gia đã được mở rộng ra không chỉ có công nhân viên chức nhà nước mà còn có cả những người lao động làm việc hưởng lương và tiền công ở những khu vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân có sử dụng 10 lao động trở lên, các khu chế xuất, văn phòng đại diện nước ngoài đều là những đối tượng tham gia bắt buộc. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia, hình thức tham gia cũng được mở rộng. Ngoài hình thức tham gia bắt buộc còn có hình thức tham gia tự nguyện để đáp ứng nhu cầu của người lao động.

- Do chế độ BHXH đã được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế, cho nên tất cả các thành phần đều nộp ở một mức thống nhất. Người sử dụng lao động nộp 15% so với tổng quỹ lương của toàn đơn vị và người lao động nộp 5% trích từ tiền lương hàng tháng. Điều này thể hiện trách nhiệm của người chủ sử dụng lao động đối với người lao động đồng thời gắn trách nhiệm của người lao động đối với công việc mà họ đang làm. Ngoài ra còn giúp người lao động tự lo cho chính bản thân mình khi gặp rủi ro hoặc hết tuổi lao động.

- Về mặt tổ chức: theo Nghị định này thì có nhiều nét đổi mới rõ rệt so với các NĐ và các chính sách trước đây. Đó là quỹ BHXH được được quy định quản lý thống nhất theo chế độ của nhà nước, hạch toán độc lập. Mặc


dù vậy, quỹ BHXH vẫn do Bộ Tài chính quản lý còn việc thực hiện do Bộ Lao động Thương binh Xã hội và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phối hợp với nhau. Nghị định còn có đề xuất thành lập hệ thống BHXH Việt Nam bằng việc sát nhập tổ chức BHXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với nhau.

- Về chính sách hưu trí nói riêng, Nghị định cũng có nhiều quy định mới

phù hợp với tình hình thực tế thể hiện như sau :

+ Trước hết, thời gian tính hưởng bảo hiểm hưu trí được coi là thời gian thực tế nộp BHXH không còn phải tính quy đổi như các chính sách trước đây.Thời gian tính hưởng bảo hiểm hưu trí theo NĐ 43/CP không đòi hỏi phải liên tục, mà quá trình tham gia nộp BHXH có thể bị ngắt quãng, miễn sao tổng số năm nộp BHXH đủ số năm quy định của nhà nước là được. Riêng thời gian công tác trước ngày 31/12/1993 vẫn phải là thời gian công tác liên tục mới được coi là nộp bảo hiểm xã hội. Việc tính thời gian công tác quy đổi đã được tách biệt ra khỏi những chế độ ưu đãi xã hội khác, không xét đến trong thời gian tính hưởng bảo hiểm xã hội. Như vậy đã xoá bỏ được sự bất hợp lý trong việc quy đổi thời gian, tạo sự công bằng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Mặt khác, NĐ cũng mở rộng hình thức hưởng chế độ hưu trí cho người tham gia bảo hiểm hưu trí nhưng chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng.

+ Tiền lương làm cơ sở để tính lương hưu trong Nghị định này là tiền lương bình quân nộp BHXH trong 10 năm cuối của quá trình công tác đối với người lao động trong khu vực nhà nước và trong suốt qúa trình đóng BHXH của người lao động trong các khu vực ngoài nhà nước. Mức thời gian tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng là 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, mức này áp dụng chung cho mọi đối tượng nam và nữ ngoài ra còn có thêm số năm đóng BHXH sẽ được tăng thêm tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí ( một năm đóng BHXH thêm được hưởng tỷ lệ là 2% nữa ). Mức hưởng gốc là 55 % tiền lương đóng BHXH bình quân nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu ( 120.000 đ ). Điều này khắc phục được những hạn chế của chế độ hưu trí trong Nghị định 236 /HĐBT trước đây là không công bằng giữa nam và nữ về chế độ đãi ngộ.


+ Các chế độ khác cũng được tách ra khỏi chế độ hưu trí, chế độ trợ cấp mất sức lao động được quy định riêng bằng một chế độ hưởng lương một lần. Mọi chế độ đã được tách bạch, tránh được sự rườm rà trong chế độ BHXH và tránh được trường hợp về hưu non, hưu chui.

Những bổ sung sửa đổi của NĐ 43/CP đã góp phần thống nhất về luật hoặc tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên NĐ 43/CP vẫn còn tồn tại một số điểm bất hợp lý sau :

- Tiền lương bình quân làm cơ sở tính lương hưu hàng tháng theo NĐ 43/CP là một điểm sửa đổi so với NĐ 236/HĐBT trước đây. Tuy nhiên, thời gian để tính nộp BHXH bình quân 10 năm là quá dài, trong khi NĐ 236/HĐBT lại lấy mức lương của tháng cuối trước khi về hưu làm cơ sở tính lương hưu. Trên thực tế lương hưu của người về hưu theo NĐ 43/CP so với lương hưu của người về hưu theo NĐ 236/HĐBT thường thấp hơn rất nhiều. Như vậy, công bằng mà nói người về hưu theo NĐ 43/CP chịu thiệt thòi hơn người về hưu theo NĐ 236/HĐBT. Đây là điểm yếu trong việc đổi mới chính sách BHXH.

- Ngoài ra, trong NĐ 43/CP còn có một điểm quy định còn gây khó khăn cho bộ phận người lao động. Đó là việc quy định thời gian tối thiểu để tính hưởng chế độ hưu trí là 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Với một số lao động ở miền nam sau năm 1975 mới tham gia đóng BHXH ( vì trước năm 1975 miền nam chưa giải phóng ) mặc dù họ cũng đã có thời gian lao động trước đó. Đến nay về tuổi đời họ đã đủ điều kiện về nghỉ hưu, song điều kiện về thời gian đóng BHXH chưa thoả mãn cho nên việc giải quyết chế độ hưu trí cho họ còn nhiều hạn chế.

- Việc quản lý thực hiện bảo hiểm hưu trí vẫn còn phân hoá ( do cả Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Bộ Tài chính quản lý ) chưa có sự thống nhất quản lý của Nhà nước .

Tóm lại : NĐ 43/CP đã khắc phục được một số điểm hạn chế của chính sách BHXH cũ như về đối tượng tham gia, việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, thời gian đóng bảo hiểm xã hội, mức lương hưu hàng tháng... Những sửa đổi này đã đóng góp một phần vào việc thống nhất, luật hoá tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội, làm cơ sở cho việc hình thành điều lệ BHXH kèm theo NĐ 12/CP sau này. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện dù chỉ là thời gian ngắn nhưng NĐ 43/CP vẫn có một số điểm bất hợp lý cần tiếp tục sửa đổi. Mặt khác, do nền kinh tế

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 29/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí